TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N
BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 4 năm 2020, Thông báo dời phiên toà hình sự ngày 28/4/2020 đối với bị cáo:
NGUYỄN THỊ B, sinh ngày: 01/01/1963 tại N. Nơi ĐKNKTT: Khu phố 1, phường M, thành phố P, tỉnh N; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: Chưa biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N (chết) và bà Lương Thị L; Chồng: Nguyễn K và 02 con.
Tiền án: Ngày 10 tháng 5 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” (bản án số 31/2019/HSST).
Nhân thân:
- Ngày 02/11/2005 bị Tòa án nhân dân huyện N.H. (tỉnh N) xử phạt 04 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/02/2006.
- Ngày 21/9/2007, Tòa án huyện N. H. (tỉnh N) xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/01/2008.
- Ngày 27/4/2015, Toà án nhân dân huyện N. P (tỉnh N) xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/01/2016.
- Ngày 28/11/2019, Tòa án nhân dân huyện N. H. (tỉnh N) xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” (bản án số 30/2019/HSST). Ngày 17/3/2020, tại bản án số 17/2020/HSPT, Tòa án nhân dân tỉnh N giữ nguyên bản án này, căn cứ khoản 5 điều 65 BLHS buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 09 tháng tù của bản án số 31/2019/HSST ngày 10/5/2019 của TAND thành phố P, tổng hợp hình phạt: buộc bị cáo Nguyễn Thị B phải chấp hành hình phạt chung là 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Bị cáo tạm giam từ ngày 11/02/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Anh Nguyễn H, sinh năm: 1972, trú: thôn A, xã C, thành phố P (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người làm chứng: Bà Trương Th, sinh năm: 1959, trú: khu phố D, phường Đ, thành phố P (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ 45 phút ngày 11/02/2020, Nguyễn Thị B điều khiển xe mô tô BKS 85B1- 667.xx đi ra xã C, thành phố P để trộm cắp tài sản. Khi đi ngang qua nhà anh Nguyễn H, B thấy cửa cổng nhà anh H mở nên dựng xe mô tô ngoài cổng, đi theo đường bên hông để đột nhập vào nhà từ cửa sau. Khi đi đến phòng bếp, B phát hiện trên bàn gỗ có 1 cái ví da nam, màu đen, B cầm mở ra thấy bên trong có 1 xấp tiền nên đã lấy xấp tiền này và bỏ cái ví da lại vị trí cũ, rồi cầm xấp tiền trong tay theo đường cũ đi ra. Khi B ra đến cửa sau thì gặp anh H đang đi đến nên B quay lại giấu số tiền vừa trộm cắp được vào trong bao xác rắn để ở góc nhà, rồi đi ra đứng ở cửa sau. Lúc này, anh H đi đến hỏi: “chị đi đâu”, B trả lời: “tôi đi mua dừa”, anh H nói: “chị đi ra sau có mầy quầy dừa, xem được không”, B liền đi ra phía sau theo hướng tay anh H chỉ, giả vờ đi xem dừa. Anh H đi vào nhà kiểm tra phát hiện bị mất số tiền trong ví da. Anh H hỏi B và B thừa nhận đã lấy tiền đồng thời đi đến vị trí cất giấu xấp tiền lấy đưa lại cho anh H. Anh H cầm tiền đếm có sự chứng kiến của B, số tiền 5.500.000 đồng và 150 đô la Australia. Sau đó anh H giữa B cùng tang vật trộm cắp đồng thời trình báo vụ việc cho Công an xã C đến làm việc. Tại cơ quan công an, B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.Tại công văn số: 42/NTH ngày 13/02/2020 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh N, xác định tỷ giá 01 đô la Australia = 15.706, 01 đồng Việt Nam. Tổng giá trị tài sản mà bị can B chiếm đoạt là 7.855.900 đồng (bảy triệu tám trăm năm mươi lăm ngàn chín trăm đồng).
Cáo trạng số 29/QĐ-VKSPR ngày 17/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173, điểm h, s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử tổng hợp hình phạt. Bị cáo không tham gia tranh luận. Khi nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận: ngày 11/02/2020, bị cáo đã lén lút trộm cắp 5.500.000 đồng và 150 đô la Australia của anh Nguyễn Hoàng H, tổng trị giá tài sản là 7.855.900 đồng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Cáo trạng số 29/QĐ-VKSPR ngày 17/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân của bị cáo: Tại phiên tòa, khi luận tội, đại diện Viện kiểm sát rút lại một phần xác định nhân thân cuả bị cáo Nguyễn Thị B như sau:
- Ngày 02/10/1985, Tòa án nhân dân thị xã P xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm tài sản riêng của công dân”, chấp hành xong án ngày 17/5/1986.
- Ngày 08/9/1986, Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân thị xã P xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “trộm tài sản riêng của công dân”, chấp hành xong án ngày 09/02/1988.
- Ngày 27/8/1988, Tòa án nhân dân tỉnh Th. H. xử phạt 04 năm tù về tội “trộm tài sản riêng của công dân”, chấp hành xong án ngày 24/9/1991.
Như vậy nhân thân của bị cáo Nguyễn Thị B được ghi nhận tại phần đầu của bản án hình sự sơ thẩm này. Do bị cáo B nhân thân xấu, có tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 BLHS, hành vi nêu trên của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo trong quá trình điều tra, xét xử và phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 điều 51 BLHS khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt với bản án số 17/2020/HSPT của Tòa án nhân dân tỉnh N.
[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: cơ quan điều tra đã thu giữ và trao trả số tiền 5.500.000 đồng và 150 đô la Australia cho anh Nguyễn Hoàng H. Anh H không có yêu cầu gì về mặt trách nhiệm dân sự, nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô BKS 85B1- 667.1xx nhãn hiệu Y màu đỏ và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô thuộc sở hữu của bà Trương Th. Vào ngày 11/02/2020, bà Th cho B mượn xe mô tô nhưng không biết B sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm. Vì vậy cơ quan điều tra đã trao trả xe mô tô trên cho bà Th là có căn cứ.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị B phạm “tội trộm cắp tài sản”
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị B 12 (mười hai) tháng tù.
Căn cứ vào: điều 56 Bộ luật Hình sự Tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù theo bản án phúc thẩm số 17/2020/HSPT ngày 17/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh N. Buộc bị cáo Nguyễn Thị B chấp hành hình phạt chung là 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/2/2020.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án.
Bản án 33/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 33/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về