Bản án 33/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Tấn T (tên gọi khác: Q), giới tính: Nam; sinh ngày 18 tháng 8 năm 1994 tại Long An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: A đường ĐVB, Phường X, Quận Y, TP. Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: B đường TĐ, Phường Z, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông NVT và bà TTD; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con.

Tiền án: Không Tiền sự:

- Ngày 11/10/2018, Tòa án nhân dân Quận 1 ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 13/10/2019.

Nhân thân:

- Ngày 21/01/2015, Ủy Ban nhân dân Phường 15, Quận 4 áp dụng Quyết định biện pháp giáo dục tại Phường về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy” trong thời hạn 03 tháng . Đã chấp hành xong ngày 21/4/2015.

- Ngày 13/01/2016, Tòa án nhân dân Quận 4 ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị bắt, tạm giam ngày 14/10/2019. (có mặt).

Bị hại:

Ông Nguyễn Tiến K, sinh năm 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: C Khu phố BPA, phường BC, thị xã TA, tỉnh Bình Dương.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn T:

Luật sư Nguyễn Thị Bích Ngọc thuộc Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh (có mặt) Địa chỉ: 65 Nguyễn Tất Thành, Phường 13, Quận 4, TP. Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Huỳnh Văn T1 (vắng mặt) Địa chỉ: E đường TĐ, Phường Z, Quận Y, TP. Hồ Chí Minh. Bà Tống Thị D (có mặt) Địa chỉ: H đường TĐ, Phường Z, Quận Y, TP. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 14/10/2019, anh Nguyễn Tiến K đang đi bộ trên đường TV vào đường số R, Phường E, Quận Y. Trên tay anh K đang cầm, sử dụng điện thoại di động Samsung Galaxy S8 Plus màu đen, bên ngoài có vỏ ốp lưng bằng nhựa màu đen. Lúc này, Nguyễn Tấn T đang điều khiển xe máy kiểu dáng Wave, màu đỏ, biển số XXXX lưu thông trên đường TV, Phường E, Quận Y thì thấy anh K đang cầm điện thoại di động sử dụng. Do không có tiền tiêu xài nên T nảy sinh ý định cướp giật điện thoại di động của anh K để bán lấy tiền tiêu xài.

Để thực hiện ý định, T quay đầu xe lại và rẽ vào đường số R, Phường E, Quận Y. Khi đến bên hông nhà số W, đường TV, Phường E, Quận Y thì T điều khiển xe máy biển số XXXX áp sát vào bên phải anh K và dùng tay trái cướp giật điện thoại di động Samsung Galaxy S8 Plus. Sau đó, T tăng ga bỏ chạy ra hướng công viên đường số G, Phường E, Quận Y để tẩu thoát. Anh K liền chạy bộ đuổi theo và tri hô “Cướp, cướp”. Khi đến trước nhà số N Lô B chung cư TTT, Phường X, Quận Y, anh Trần Quang M nghe tiếng anh K tri hô và thấy anh K đuổi theo T, nên anh M cầm ghế định ném vào người T thì T quay đầu xe ngã xuống đường, điện thoại Samsung Galaxy S8 Plus rớt xuống đường, T bỏ xe máy chạy bộ vào hẻm Q Lô B chung cư TTT, Phường X, Quận Y. Anh K đuổi theo phía sau T nhặt được điện thoại và tiếp tục chạy bộ đuổi theo T. T chạy được khoảng 2- 3m thì bị anh Đinh Thành T2, đang giữ xe tại chung cư TTT nghe tiếng tri hô của anh K và thấy T chạy bộ về hướng của mình nên anh T2 cùng người dân xung quanh hỗ trợ bắt giữ T cùng tang vật giao cho Công an Phường 4, Quận 4 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại cơ quan điều tra Công an Quận 4, Nguyễn Tấn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản số 107/KL-HĐĐG ngày 04/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 Plus, màu đen, Imei 1: 35911608871051301, Imei 2: 35911708871051101 (đã qua sử dụng) có giá trị: 4.300.000 đồng;

- 01 sim điện thoại di động mạng Viettel số 038200xxxx không xác định được giá trị;

- 01 sim điện thoại di động mạng Viettel số 036677xxxx không xác định được giá trị;

- 01 ốp lưng bằng nhựa màu đen, đã qua sử dụng, không xác định được giá trị; Tại Bản cáo trạng số 12/CTr-VKS ngày 25/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tấn T có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, nên xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng số 12/CTr- VKS ngày 25/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, TP. Hồ Chí Minh; đề nghị xử phạt bị cáo T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, phạt tiền 10.000.000 đồng đối với bị cáo.

Luật sư Nguyễn Thị Bích Ngọc bào chữa cho bị cáo: Đồng ý với tội danh và điều luật truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo nhất thời phạm tội; phạm tội lần đầu; chưa gây thiệt hại; tài sản đã thu hồi trả cho bị hại; chú ruột của bị cáo là liệt sỹ Nguyễn Văn T3 gia đình có công với đất nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 14/10/2019, Nguyễn Tấn T đã có hành vi nhanh chóng và bất ngờ chiếm đoạt 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 Plus của anh Nguyễn Tiến K. Hành vi của bị cáo phạm tội Cướp giật tài sản, do bị cáo dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe máy hiệu Wave, màu đỏ, biển số XXXX làm phương tiện phạm tội, vì vậy tội phạm và hình phạt quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 171 Bộ luật hình sự 2015, bổ sung năm 2017.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo rất táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì để có tiền tiêu xài nên bị cáo cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác với thủ đoạn nguy hiểm, nhanh chóng và bất ngờ. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an và an toàn xã hội; xâm hại đến tài sản hợp pháp của người bị hại. Để có tác dụng giáo dục và răn đe, căn cứ vào tính chất nguy hiểm của tội phạm cần có mức án tương ứng để xử phạt. Tuy nhiên, xét bị cáo thành khẩn khai báo, chú ruột của bị cáo là liệt sỹ, gia đình có công với đất nước, tài sản thu hồi đã trả cho bị hại nên khi lượng hình có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về phần bồi thường dân sự:

Tài sản của anh Nguyễn Tiến K bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 Plus màu đen, bên ngoài có vỏ ốp lưng bằng nhựa màu đen, bên trong có 01 sim điện thoại Viettel số 0366.77.xxxx, 01 sim điện thoại Viettel số 0382.00.xxxx Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã trao trả cho anh Nguyễn Tiến K là chủ sở hữu. Anh K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường. Vì vậy phần bồi thường dân sự không có gì giải quyết.

[5]. Về xử lý vật chứng: Thu giữ của Nguyễn Tấn T - 01 xe máy hiệu Wave, màu đỏ, biển số XXXX, số khung: RRKWCH2UM5X- 008020, số máy: VTTJL1P52FMH1008020 (đã qua sử dụng), là phương tiện T sử dụng đi cướp giật tài sản. Qua xác minh được biết xe trên do ông Huỳnh Văn T1 làm chủ sở hữu. Ông T1 đưa xe cho bà Tống Thị D (mẹ ruột của T) làm phương tiện đi lại.

Ngày 14/10/2019, bà D đưa xe cho T mượn để đi phô tô giấy tờ tùy thân, bà D không biết T sử dụng xe trên vào việc cướp giật tài sản ngày 14/10/2019 nên cần trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp.

- 01 điện thoại di động Masstel C300 màu trắng xanh có số Imei 1: 330014050110412 và số Imei 2: 330014050110420 (đã qua sử dụng);

- 01 điện thoại di động Nokia màu trắng đen số model có số model: TA-1010, số Imei: 35342309379 (đã qua sử dụng);

- 01 áo sơ mi màu xanh dương dài tay, 01 quần Jean xanh; 01 đôi dép kẹp màu đen; 01 nón kết màu xám có chữ Villanioa (Thu giữ của T, T mặc khi cướp giật tài sản).

Xét, đây là các tài sản của bị cáo Nguyễn Tấn T và không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo T.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn T (Q) phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2, Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Tấn T 03 (Ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự

Trả lại cho ông Huỳnh Văn T1 01 xe máy hiệu Wave, màu đỏ, biển số XXXX, số khung: RRKWCH2UM5X-008020, số máy: VTTJL1P52FMH1008020 (đã qua sử dụng).

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn T 01 điện thoại di động Masstel C300 màu trắng xanh có số Imei 1: 330014050110412 và số Imei 2: 330014050110420 (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động Nokia màu trắng đen số model có số model: TA-1010, số Imei: 35342309379 (đã qua sử dụng); 01 áo sơ mi màu xanh dương dài tay, 01 quần Jean xanh; 01 đôi dép kẹp màu đen; 01 nón kết màu xám có chữ Villanioa ( Thu giữ của T, T mặc khi cướp giật tài sản).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/3/2020 giữa Công an Quận 4 với Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4).

- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng;

2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Đối với bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về