TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 33/2020/HS-PT NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2020/HS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang, do có kháng cáo của bị cáo:
NÔNG THỊ H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 17/9/1972 tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang:
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở hiện nay: Thôn Nà Lừa, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn T và bà Vương Thị Ph (đã chết); có chồng là Chư Văn B (đã ly hôn) và có 03 con, con lớn sinh 1992, con nhỏ sinh năm 2005:
Tiền án: Không.
Tiền sự: Tại Quyết định số 83/QĐ-XPHC ngày 13/02/2020 của Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính, Nông Thị H bị phạt tiền 3.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (đến ngày phạm tội chưa chấp hành nộp phạt):
Bị cáo tại ngoại, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 07 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nông Thị H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc (tại Quyết định số 83/QĐ-XPHC ngày 13/02/2020 của Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang). Ngày 22/3/2020, H tiếp tục có hành vi đánh bạc, cụ thể:
Khoảng 21 giờ ngày 22/3/2020, H đang ở nhà thì có Quan Thị D, trú tại thôn Nông Tiến 2, xã T, huyện C gọi điện nói "có gì không" ý hỏi có chỗ nào đánh bạc không thì H trả lời "không có gì đâu", Dược nói "tý lên chơi". Khoảng 10 phút sau, lần lượt có D; Quan Văn X, trú tại thôn Nông Tiến 2, xã T; Ma Thị Hương, trú tại thôn Nà Lừa, xã T; Ma Công T, trú tại thôn Nà Đổng, xã T, huyện C đến chơi. Quá trình ngồi chơi có người nói "làm tý đi", ý rủ nhau đánh bạc, có người nói "ít cũng đánh tý" (không xác định được ai nói). H xuống bếp lấy 01que đóm bằng tre bôi đen một mặt, một mặt để trắng tự nhiên nhờ Tuyên cắt que đóm thành 04 quân bạc có kích thước (01x 01) cm, T lấy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ của nhà H, H cầm một chiếc đèn pin màu trắng có chữ CHARGE rồi cùng mọi người lên khu vực đồi cây Keo phía sau nhà H để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa tính chẵn lẻ sát phạt nhau bằng tiền mỗi ván từ 10.000 đồng trở lên cao nhất thì không xác định được. T là người xóc cái đồng thời cũng là người đánh bạc. H đứng xem không tham gia đánh bạc. Quá trình đánh bạc có Chư Văn T, Seo Văn T, Seo Văn K, cùng trú tại thôn Nà Lừa, xã T; Chẩu Văn Ch, trú tại thôn Nông Tiến 2, xã T huyện C lần lượt cùng đến tham gia đánh bạc. Bị cáo H và các đối tượng đánh bạc đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện C kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Chẩu Văn Ch và Quan Thị D, tang vật thu giữ tại chiếu bạc 200.000 đồng; 01 bát sứ; 01 đĩa sứ:
04 quân bạc bằng đóm tre kích thước (01x 01) cm; Ch tự nguyện giao nộp 120.000 đồng, còn các đối tượng khác bỏ chạy.
Kết quả điều tra xác định hành vi và số tiền bị cáo H và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc thắng, thua bằng tiền như sau:
Nông Thị H là người chuẩn bị que đóm, đèn pin và dùng 100.000 đồng vào mục đích đánh bạc, thua 60.000 đồng; Ma Công T là người cắt quân bạc và lấy bát đĩa đồng thời là người xóc cái cho mọi người đánh bạc, không có tiền và được (T cho 10.000 đồng, X cho 10.000 đồng, Ch cho 20.000 đồng, nên Tuyên sử dụng 40.000 đồng vào mục đích đánh bạc); Quan Thị D 50.000 đồng; Chư Văn T 20.000 đồng; Quan Văn X 25.000 đồng; Seo Văn T 100.000 đồng; Seo Văn K 40.000 đồng; Chẩu Văn Ch 130.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc được quy kết là 505.000đ (năm trăm linh năm nghìn đồng).
Tại bản án số: 40/2020/HS-ST ngày 28/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.
Tuyên bố bị cáo Nông Thị H phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt Nông Thị H, 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án.
Tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 01 đèn pin, 04 quân bạc bằng tre.
Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao vật chứng tài sản lập ngày 06/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 485.000 đồng. Tiền tịch thu sung ngân sách Nhà nước hiện đang được tạm gửi tại tài khoản số 3591.0.1065091.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C tại Kho bạc Nhà nước huyện C.
Bị cáo Nông Thị H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.
Ngày 04/9/2020, bị cáo Nông Thị H kháng cáo, xin được hưởng án treo. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:
Về thủ tục kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, đúng pháp luật; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án đúng tố tụng.
Về nội dung kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo Nông Thị H 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 là đúng người, đúng tội, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Nông Thị H không xuất trình được tình tiết mới cho nội dung kháng cáo nên không có cơ sở xem xét cho bị cáo hưởng án treo.
Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nông Thị H. Giữ nguyên quyết định về phần hình phạt đối với bị cáo tại bản án hình sự sơ thẩm số 40/2020/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo Nông Thị H nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương để có cơ hội trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm không bị kháng nghị, bị cáo Nông Thị H có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, trong phạm vi vụ án nên được công nhận là hợp lệ.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nông Thị H tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Nông Thị H là người có tiền sự, tại Quyết định số 83/QĐ-XPHC ngày 13/02/2020 của Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 3.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (đến ngày phạm tội chưa chấp hành nộp phạt). Trong vụ án này là người chuẩn bị que đóm, đèn pin và dùng 100.000 đồng vào mục đích đánh bạc, thua 60.000 đồng; Nông Thị H đã cùng với các đối tượng gồm: Ma Công Tuyên; Quan Thị Dược; Seo Văn Thắng; Seo Văn Kể; Chẩu Văn Chiều đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa. Tổng số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc được quy kết là 505.000đ (năm trăm linh năm nghìn đồng).
[3] Về hành vi phạm tội và xét đơn kháng cáo của bị cáo: Hành vi đánh bạc của bị cáo Nông Thị H cùng các đối tượng khác đã thực hiện với tổng số tiền sử dụng vào việc phạm tội 505.000 đồng là dưới mức thấp nhất về mức giá trị đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự, nhưng do bị cáo đã có tiền sự là tình tiết định tội nên đủ căn cứ xét xử bị cáo về tội đánh bạc. Tuy tiền sự của bị cáo không còn bị coi là tình tiết tăng nặng, nhưng thể hiện hành vi của bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự do có hai dấu hiệu kế tiếp nhau. Do đó, bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội Đánh bạc là đúng người, đúng tội, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.
Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nông Thị H tuy có nhiều tình tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, có tình tiết mới như nộp án phí, nộp tiền phạt sau khi phạm tội nhưng không có tình tiết mới có giá trị làm thay đổi tính chất vụ án.
Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nông Thị H, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Tuyên Quang không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên nội dung, quyết định của án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt 06 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Nông Thị H.
[4] Về án phí: Bị cáo Nông Thị H không được chấp nhận kháng cáo nên pH chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nông Thị H, giữ nguyên hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2020/HS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang có kháng cáo như sau:
Áp dụng: khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: bị cáo Nông Thị H 06 (sáu) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thi hành án.
2. Bị cáo Nông Thị H pH chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Ghi nhận bị cáo đã nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0002800 ngày 28/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (17/11/2020)./.
Bản án 33/2020/HS-PT ngày 17/11/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 33/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về