Bản án 33/2020/DS-ST ngày 11/08/2020 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 33/2020/DS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Trong ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 28/2020/TLST-DS, ngày 24/02/2020 về việc “Tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-DS, ngày 16 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H - sinh năm 1967 (có mặt);

Đa chỉ: ấp Phước L, xã A, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Ông Trần Văn U – sinh năm 1974; Bà Phạm Thị N - sinh năm 1973 (đều vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp A, xã A, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/02/2020, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:

Thời gian vào năm 2017, bà có tham gia chơi hụi do vợ chồng bà Phạm Thị N và ông Trần Văn U làm chủ, gồm các dây hụi sau:

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Xổ ngày 20/6/2017 al, có 32 chân, bà chơi 02 chân, dây hụi này chưa mãn nhưng vợ chồng bà N tuyên bố ngưng hụi, bà chưa hốt hụi và đã đóng 16 lần được số tiền 16.000.000đ (8.000.000đ/chân x 02 chân);

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Xổ ngày 30/9/2017 al, có 30 chân, bà chơi 02 chân, dây hụi này chưa mãn nhưng vợ chồng bà N tuyên bố ngưng hụi, bà chưa hốt hụi và đã đóng 14 lần được số tiền 14.000.000đ (7.000.000đ/chân x 02 chân);;

- Dây hụi 1.000.000đ /tháng: Xổ ngày 18/8/2017 al, có 24 chân, bà chơi 01 chân, dây hụi này chưa mãn nhưng vợ chồng bà N tuyên bố ngưng hụi, bà chưa hốt hụi và đã đóng 14 lần được số tiền 14.000.000đ.

Tng cộng 03 dây hụi trên, vợ chồng bà N, ông U còn nợ bà số tiền 44.000.000đ, tiền này bà tính theo hụi chết. Bà đã nhiều lần đến yêu cầu vợ chồng bà N trả nợ nhưng ông U, bà N chỉ cam kết và hứa hẹn nhưng không thực hiện.

Tại phiên tòa, bà Trần Thị H giữ nguyên yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 22.725.000đ, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị N và ông Trần Văn U phải trả cho bà số tiền hụi là 21.275.000đ (hai mươi mốt triệu, hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

Đi với yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn, tại Biên bản ghi lời khai ngày 18/3/2020, bị đơn bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U trình bày:

Bà N, ông U thừa nhận: Bà H có tham gia chơi hụi do vợ chồng ông bà làm chủ. Các chân hụi, dây hụi và số lần đóng hụi như bà H kê ra là đúng. Quá trình làm chủ hụi, do nhiều hụi viên khác giật hụi nên ông bà không còn khả năng tràn hụi nữa nên tuyên bố bể hụi. Số tiền vốn bà H đã đóng được của 03 dây hụi trên là 23.275.000đ, ông bà đã trả được 2.000.000đ và còn nợ lại bà H 21.275.000đ. Ông U, bà N đồng ý trả cho bà H số tiền này nhưng hẹn trả dần mỗi tháng 500.000đ cho đến khi hết nợ.

Đi diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp nợ hụi” là đúng quy định và thuộc thẩm quyền giải quyết. Từ khi thụ lý đến khi xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các bước tiến hành tố tụng đúng theo quy định, tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án nên cần rút kinh nghiệm. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 471, 688 Bộ luật dân sự 2015, Điều 23 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường.; khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 22.725.000. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H buộc bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U phải có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền nợ hụi là 21.275.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại nên bà Trần Thị H khởi kiện bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U về việc “Tranh chấp nợ hụi” được Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U với tư cách là bị đơn vắng mặt lần thứ 2 nhưng không có lý do. Xét việc vắng mặt này không gây trở ngại khi xét xử vụ án, căn cứ Điều 227 BLTTDS vụ án vẫn được xét xử theo quy định.

[2] Về nội dung: Thời gian vào năm 2017, giữa bà Trần Thị H và bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U có thỏa thuận góp hụi với nhau, vợ chồng bà N, ông U làm chủ hụi, bà H là thành viên trong các dây hụi: Dây hụi 1.000.000đ/tháng, xổ ngày 18/8/2017 al, dây hụi 500.000đ/tháng, xổ ngày 30/9/2017 al và dây hụi 500.000đ/tháng, xổ ngày 20/6/2017 al. Quá trình chơi hụi, bà H thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp hụi của 03 dây hụi trên cho đến khi vợ chồng bà N ngưng xổ hụi. Tuy nhiên, từ khi ngưng xổ hụi đến nay, vợ chồng bà N vẫn chưa giao hụi đầy đủ cho bà H nên bà H khởi kiện đòi lại số tiền nợ hụi còn lại. Xét về nội dung và hình thức hợp đồng góp hụi như trên giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015 nên phát sinh hiệu lực thi hành.

Tại phiên tòa, bà Trần Thị H giữ nguyên yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 22.725.000đ. Xét việc tự nguyện rút 01 phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là phù hợp nên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, chấp nhận đình chỉ một phần yêu cầu này của nguyên đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà H buộc vợ chồng bà N, anh Út phải trả số tiền nợ hụi còn lại là 21.275.000đ. Quá trình giải quyết vụ án, bà N, ông U đều thừa nhận số tiền hụi còn nợ bà H là 21.275.000đ nhưng hẹn trả dần mỗi tháng 500.000đ cho đến khi hết nợ. HĐXX thấy rằng, bà N, ông U không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao tiền hụi theo đúng cam kết là đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và yêu cầu xin trả nợ dần của ông bà cũng không được bà H đồng ý cho nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H và buộc bà N, ông U có trách nhiệm thanh toán số nợ hụi này cho bà H là phù hợp.

[4] Về án phí: Bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 1.064.000đ (21.275.000đ x 5%) do ông bà có lỗi trong vụ kiện này.

Bà Trần Thị H được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 471 và Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H về việc yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 22.725.000đ.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H.

Buộc bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị H số tiền 21.275.000đ (hai mươi mốt triệu, hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà H cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà N, ông U còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U phải chịu án phí có giá ngạch là 1.064.000đ (một triệu, không trăm sáu mươi bốn nghìn đồng).

Bà Trần Thị H không phải nộp án phí và được nhận lại số tiền 1.100.000đ (một triệu, một trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008787, ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 11/8/2020). Đương sự vắng mặt tại phiên thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/DS-ST ngày 11/08/2020 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:33/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về