Bản án 33/2019/HSST ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BÔI, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 33/2019/HSST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/HSST ngày 16/8/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/HSST-QĐ, ngày 11 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

1. Nguyễn Hữu Q; tên gọi khác: Không; sinh ngày 25/9/1997.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn A, xã K, huyện TT, TP HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1975, con bà Đỗ Thị L, sinh năm1975; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 12/3/2015 bị Công an huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hình thức: Cảnh cáo.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2019 tại nhà tạm giữ Công an huyện Kim Bôi đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn L: tên gọi khác: Không; sinh ngày 06/07/1996.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn B, xã HB, huyện TT, thành phố HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L sinh năm1958, con bà Phùng Thị X sinh năm 1963; gia đình bị cáo có ba anh em, bị cáo là con thứ ba;vợ, con: chưa; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 10/8/2017, Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, Tp.Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bản án số 53/2017/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong án phạt tù chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2019 tại nhà tạm giữ Công an huyện Kim Bôi, có mặt tại phiên tòa.

3. Người bị hại: Bùi Văn M, SN 1977, Bùi Thị D, SN 1984;

Đều trú tại: thôn Đ, xã SB, huyện KB, tỉnh HB, có mặt.

4. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 13/01/2002. Người đại diện hợp pháp của chị Nguyễn Thị Mỹ T là bà Phí Thị M (mẹ đẻ chị T); trú tại: Thôn C, xã TX, huyện TT, thành phố HN.có mặt.

- Chị Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1990, trú tại: xã PL, huyện TT, thành phố HN. vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1994, trú tại: thôn L, xã LT, huyện TT, thành phố HN, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 01/06/2019, Nguyễn Hữu Q chuẩn bị “vam” tự chế, cờ lê 8, cờ lê 10 đến nhà bạn gái là Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 2002, trú tại thôn C, xã TX, huyện TT, thành phố HN mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Ultimo Mio, BKS:33N3-2025 và nói đi có việc. Sau khi mượn được xe, Q đến nhà Nguyễn Văn L, trú tại thôn 1, xã HB, huyện TT, thành phố HN, L thấy Q gọi và hiểu ý Q đến rủ mình đi trộm cắp tài sản, L vào nhà thay quần áo, chuẩn bị khẩu trang rồi đi ra ngoài, thấy Q đang tháo biển xe máy cất vào trong cốp xe, Q bảo L điều khiển xe vào Kim Bôi, Hòa Bình, trên đường đi cả hai dừng ở Nam Thượng, Kim Bôi ăn trưa. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, L tiếp tục chở Q đi quay lại khu vực xã Sào Báy, Kim Bôi đường đi hướng Resort Serena Kim Bôi, thấy 02 chiếc xe máy dựng cạnh bụi tre ở phía trước không có người trông giữ, L lái xe đi qua 02 chiếc xe máy khoảng 20m thì dừng lại rồi cùng nhau giả vờ bẻ măng (Q và L tưởng măng dại mọc) và quan sát người xung quanh. Một lúc sau, anh Bùi Văn T, sinh năm1979, trú tại xóm Đ, xã SB, đi từ hướng ngược lại gặp hỏi Q và L bằng tiếng mường “đi ăn trộm măng à?”, Q không hiểu gì nhưng trả lời lại “đi bẻ măng”. Sau đó, anh T đi đến vị trí 02 chiếc xe, lấy xe mô tô của mình đang dựng cạnh xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha BKS 28B1-110.76 của vợ chồng anh Bùi Văn M và chị Bùi Thị D cùng xóm về nhà. Anh T nghi Q và L định trộm cắp tài sản nên đã báo lại cho anh Bùi Văn H, Bùi Văn L và một số người dân ở cùng xóm biết để cảnh giác. Sau khi quan sát nghĩ không có ai để ý, Q bảo L đứng ở xe cảnh giới người xung quanh còn Q đi bộ đến dùng vam phá mở ổ khóa điện xe mô tô BKS: 28B1-110.76. Mở khóa xe xong Q bảo L khi nào thấy Q đi thì đi theo. Lúc này, do nghi ngờ nên anh H đi xe máy đến hỏi “đang làm gì” thì Q trả lời là đi bẻ măng, sau đó anh H lái xe đi quay về. Chờ thêm một lúc thấy không có ai xung quanh, Q đi đến chỗ chiếc xe BKS:28B1-110.76 mở khóa xe và quay đầu nổ máy và điều khiển theo hướng đường 12B, đến đầu cầu Đồng Chờ thì bị anh H và anh Bùi Văn Tr chặn bắt, Q lách xe chạy qua và đi ra đường 12B hướng Ba Hàng Đồi, đi được khoảng 2 - 3km, Q rẽ vào một đường mòn rồi vứt bỏ chiếc cờ lê 8, cờ lê 10 và chiếc “vam” vào bụi cây bên đường rồi điều khiển xe đi về nhà chị Nguyễn Thị Mỹ T. Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô BKS:33N3-2025, đi theo sau thấy Q bị chặn, đuổi bắt nên đi quay lại phía Serena Resort Kim Bôi (thuộc xóm Đồng Chờ) để bỏ trốn nhưng đã bị anh H, anh Tr và anh T bắt được và bàn giao cho cơ quan công an. Ngày 02/6/2019, Nguyễn Hữu Q, đã đến Công an huyện Thạch Thất đầu thú về hành vi trộm cắp đồng thời giao nộp lại 01 chiếc xe mô tô BKS:28B1-110.76, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 bảo hiểm xe mô tô và 01 giấy bán xe.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 11/KL-HDĐGTS ngày 04/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Kim Bôi kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, BKS:28B1-110.76 tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là: 9.101.000 đ (chín triệu một trăm linh một nghìn đồng).

Cáo trạng số 35/CT-VKS ngày16/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khon 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với hai bị cáo. Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 38, điều17, điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Hữu Q từ 9 đến 15 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 38, điều17, điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn L từ 9 đến 15 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Văn L là lao động tự do, không có công việc ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng điều 46 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với vật chứng là 01 cờ lê 8, 01 cờ lê 10 và vam phá khóa tự chế cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý. Đối với 02 xe mô tô không liên quan đến tội phạm, cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không đề cập.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không đề cập.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Hữu Q, bị cáo Nguyễn Văn L xin HĐXX cho hưởng hình phạt nhẹ để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra công an huyện Kim Bôi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hữu Q và Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ phút ngày 01/06/2019, Nguyễn Hữu Q và Nguyễn Văn L đã lén lút lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha BKS: 28B1-110.76 của vợ chồng anh Bùi Văn M và Bùi Thị D có giá trị 9.101.000đ (chín triệu một trăm linh một nghìn đồng). Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu Q và Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Hữu Q và Nguyễn Văn L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có đủ năng L trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi các bị cáo vẫn lén lút thực hiện hành vi trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản của những người bị hại một cách trái pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của những người bị hại được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, gây T lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo cần có mức hình phạt tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Xét vai trò của từng bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Đây là vụ án đồng phạm có tính giản đơn, không có sự bàn bạc, các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này bị cáo Q là người giữ vai trò chính, bị cáo là người đề sướng, chuẩn bị công cụ phạm tội là cờ lê và Vam phá khóa rồi rủ bị cáo L cùng thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy của anh Bùi Văn M và chị Bùi Thị D có giá trị 9.101.000đ nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Hữu Q không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đầu thú về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.  Bị cáo Nguyễn Văn L có 01 tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 53/2018 ngày 10/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h, khoản 1 điều 52 BLHS. Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. 

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét các bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của BLHS.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đi với vật chứng là 01 cờ lê 8, 01 cờ lê 10 và vam phá khóa tự chế, trong quá trình bỏ chạy bị cáo Q đã vứt bỏ, cơ quan điều tra truy tìm nhưng không tìm thấy nên không xem xét.

Đi với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Ultimo Mio màu đỏ và các giấy tờ liên quan đến xe có BKS: 33N3-2025 của chị Nguyễn Thị Mỹ T và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen bạc, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 bảo hiểm xe mô tô BKS:28B1-110.76 mang tên Bùi Thị D. Những tài sản trên cơ quan điều tra trả cho chủ sở hữu hợp pháp nên không đề cập.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người liên quan đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu các bị cáo bồi thường về Dân sự nên HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo Q, bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu Q, bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 38, điều17, điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Hữu Q 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/06/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 38, điều17, điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn L 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/06/2019.

5. Về án phí: Căn cứ điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH. Bị cáo Nguyễn Hữu Q và Nguyễn Văn L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HSST ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:33/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bôi - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về