Bản án 33/2019/HS-ST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường UBND xã Q, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 37/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019, theo Q định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn Q, sinh năm 1986 tại huyện T, tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn A, xã Q, huyện T, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K và bà Phạm Thị Đ;

Tiền án:

- Bản án số 154/2012/HSST ngày 06/9/2012, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt Phạm Văn Q 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/9/2014).

- Bản án số 09/2016/HSST ngày 04/02/2016, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hải Dương xử phạt Phạm Văn Q 45 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "tái phạm" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/4/2019).

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 117/2006/HSST ngày 19/4/2006, Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" (bị cáo chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích); ngày 17/01/2012, bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi "sử dụng trái phép chất ma túy", hình thức phạt tiền 750.000 đồng (bị cáo nộp phạt ngày 17/01/2012).

Bị tạm giữ từ ngày 14/6/2019, sau chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng: Anh Phạm Văn M (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Q là người nghiện ma túy và có 02 tiền án về các tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và "Mua bán trái phép chất ma túy". Chiều 13/6/2019, trên đường đi làm ở Hải Phòng về, Q điều khiển xe máy nhãn hiệu River, biển số 34K5-1623 (xe Q mượn của em trai là Phạm Văn Tâm) ra khu vực đường tàu thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, Q gặp và mua của một người phụ nữ (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 03 gói ma túy được gói bằng giấy màu trắng, kích thước mỗi gói (2x1)cm với số tiền 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Q mang về nhà để sử dụng dần, tối cùng ngày Q sử dụng hết 01 gói ma túy. Đến khoảng 5 giờ 30 phút ngày 14/6/2019, Q cất giấu 02 gói ma túy vào túi quần bên phải đang mặc và điều khiển xe máy 34K5-1623 đi làm, khi ra đến cổng nhà (thôn A, xã Q, huyện T) thì bị tổ công tác của Công an huyện T phát hiện, bắt quả tang, Q tự nguyện lấy trong túi quần 02 gói ma túy cùng 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng giao nộp cho Cơ quan Công an.

Tại bản kết luận giám định số 251/KLGĐ-PC09 ngày 16/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Phạm Văn Q gửi đến giám định tổng khối lượng là 0,327 gam là ma túy, loại Heroin.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKS-TK ngày 22/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Phạm Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ giữ nguyên Q định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn Q phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Q từ 05 năm 03 tháng đến 05 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, 14/6/2019; về hình phạt bổ sung: không áp dụng; về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 0,252 gam Heroin và 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; về án phí: buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, không có ý kiến gì về luận tội của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 14/6/2019, tại cổng nhà mình ở thôn A, xã Q, huyện T, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn Q có hành vi cất giấu trái phép 0,327 gam ma túy là loại Heroin tại túi quần bên phải đang mặc, với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện bắt quả tang.

[2] Bị cáo Phạm Văn Q là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã có 02 tiền án: Vào ngày 06/9/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; ngày 04/02/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xử phạt 45 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "tái phạm" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; đến ngày 13/6/2019, bị cáo chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,327 gam nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Như vậy, Q định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước ở tất cả các khâu nên phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo thì mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào nhưng có nhân thân xấu, thể hiện: Năm 2006, bị Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Ngoài ra, vào ngày 17/01/2012, bị Công an huyện Tứ Kỳ xử phạt hành chính về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy", với hình thức phạt tiền 750.000 đồng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải bắt bị cáo Q cách ly đời sống xã hội một thời gian để Nhà nước giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Q là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Số ma túy mà Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương hoàn lại sau giám định (0,252 gam) là vật Nhà nước cấm lưu hành; 02 bơm kim tiêm (đã qua sử dụng) thu giữ được của bị cáo không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy; chiếc xe máy nhãn hiệu River, biển số 34K5-1623 mà bị cáo dùng để đi mua ma túy là của anh Phạm Văn Tâm (em trai bị cáo), anh Tâm không biết bị cáo dùng xe máy của mình để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ đã trả lại xe cho anh Tâm là phù hợp.

[9] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo Q nhưng Cơ quan điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án này, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giữ, ngày 14/6/2019.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 0,252 gam Heroin (là mẫu vật hoàn lại sau giám định) và 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng (đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/7/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về