Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 225/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 523/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị A; sinh năm 1982; nơi cư trú: Singapore; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Duy B; sinh năm 1978; nơi cư trú: Số 92 đường C, phường D, quận E, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn xin ly hôn nhận ngày 06-11-2018, nguyên đơn là chị Trần Thị A trình bày: Chị A và anh Nguyễn Duy B kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, quận E, thành phố Hải Phòng ngày 06-12-2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến tháng 6 năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do hai bên bất đồng quan điểm sống. Kể từ tháng 7 năm 2009 cho đến nay hai bên đã sống ly thân. Chị A đi lao động tại DuBai và hiện đang sinh sống tại Singapore. Chị A, anh B đã sống ly thân nhiều năm nay nhưng do sợ ảnh hưởng đến con chung nên chưa làm thủ tục ly hôn. Nay thấy rằng con chung lớn, đã nhận thức được thực trạng mối quan hệ của bố mẹ nên Chị A làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn để cả hai bên ổn định cuộc sống.

Về quan hệ nuôi con chung: Chị A trình bày, quá trình chung sống có một con chung là Nguyễn Đức G, sinh ngày 12-9-2007. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân, con chung được anh B trực tiếp nuôi dưỡng và có sự giúp đỡ của ông bà nội. Hiện con chung có cuộc sống ổn định cùng anh B nên ly hôn, chị A đề nghị Tòa án giao con chung cho anh B được tiếp tục nuôi dưỡng. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, chị A tự thỏa thuận với anh B, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung: Chị A trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại văn bản ngày 18-01-2019 và các văn bản khác, bị đơn - anh Nguyễn Duy B xác nhận mối quan hệ vợ chồng được xác lập như chị A trình bày. Sau khi kết hôn, anh B, chị A chung sống cùng bố mẹ đẻ của anh B tại số 92 đường C, phường D, quận E, thành phố Hải Phòng. Năm 2009, chị A sang DuBai lao động, hiện đang sinh sống tại Singapore. Kể từ khi chị A ra nước ngoài cho đến nay, vợ chồng không chung sống cùng nhau nhưng hai bên vẫn liên lạc và thỉnh thoảng chị A có về Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tại chị A không muốn về Việt Nam sinh sống, còn anh B không muốn ra nước ngoài sinh sống cùng chị A nên vợ chồng không thể đoàn tụ. Nay chị A có yêu cầu ly hôn, anh B đồng ý.

Về quan hệ nuôi con chung: Anh B xác nhận có một con chung như chị A trình bày. Ly hôn, anh B đồng ý trực tiếp nuôi con chung và thống nhất quan điểm với chị A về việc hai bên tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Anh B xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Chị A, anh B vắng mặt và đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Mâu thuẫn giữa anh B và chị A đã sâu sắc, các bên đương sự đều thống nhất xin ly hôn nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A. Về con chung: Chấp nhận quan điểm của chị A và anh B, giao con chung cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Anh B, chị A không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Quan hệ tranh chấp của vụ án về việc ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Do không thể có mặt tại phiên tòa nên chị A, anh B đều đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Đề nghị của chị A, anh B phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị A, anh B.

- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị A và anh Nguyễn Duy B kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, quận E, thành phố Hải Phòng ngày 06-12-2007 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh B, chị A chung sống được một thời gian ngắn thì chị A ra nước ngoài sinh sống cho đến nay. Hiện tại, chị A đã có cuộc sống ổn định ở nước ngoài nên không muốn quay về Việt Nam sinh sống. Về phía anh B không muốn ra nước ngoài chung sống cùng chị A. Do bất đồng quan điểm về việc chọn nơi chung sống nên vợ chồng không có cơ hội đoàn tụ. Nay chị A và anh B đều thống nhất quan điểm ly hôn để tạo điều kiện cho cả hai bên ổn định cuộc sống. Hội đồng xét xử xét thấy chị A, anh B đều thống nhất ly hôn, quan điểm của các bên là tự nguyện và phù hợp với tình trạng gia đình, mối quan hệ giữa các bên cũng như phù hợp với quy định tại Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận.

[4] Về quan hệ nuôi con chung: Chị A, anh B xác nhận quá trình chung sống có một con chung là Nguyễn Đức G, sinh ngày 12-9-2007. Ly hôn, anh B, chị A thống nhất đề nghị Tòa án giao con chung cho anh B tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, quan điểm của chị A, anh B phù hợp với nguyện vọng của con chung Nguyễn Đức G và trên thực tế nhiều năm nay con chung Nguyễn Đức G được anh B trực tiếp nuôi dưỡng, hiện có cuộc sống ổn định cùng với anh B và ông bà nội nên cần chấp nhận đề nghị của chị A về việc nuôi con chung. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, chị A, anh B thống nhất tự thỏa thuận, không có yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung: Chị A, anh B đều thống nhất trình bày không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm:

[5] Chị A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật - Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị A được ly hôn với anh Nguyễn Duy B.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Đức G, sinh ngày 12-9-2007 cho anh Nguyễn Duy B được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, các bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Trần Thị A có quyền thăm nom con, anh Nguyễn Duy B không được cản trở chị A thực hiện quyền này. Chị A không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về quan hệ tài sản chung: Anh Nguyễn Duy B và chị Trần Thị A xác nhận không có, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Trần Thị A phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghin đông ) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đông đã nộp theo Biên lai thu sô 0010944 ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Trần Thị A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong thời hạn 01 tháng (Một tháng) kê tư ngay bản án được tống đạt hợp lệ , chị Trần Thị A có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết anh Nguyễn Duy B có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

353
  • Tên bản án:
    Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn
  • Số hiệu:
    33/2019/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    28/02/2019
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về