Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC. TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 15/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST –HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Chị Nguyễn Thị Bích V - Sinh năm: 1992. Địa chỉ: ấp K, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Vũ Minh T- Sinh năm: 1992. Địa chỉ: Ấp 5, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

( Chị V, anh T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/02/2019 và trong quá giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích V trình bày:

Trên cơ sở tự nguyện, chị Nguyễn Thị Bích V và anh Vũ Minh T chung sống và đăng ký kết hôn năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Đây là lần kết hôn đầu tiên của anh chị.

Sau khi kết hôn, chị và anh T sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Mặt khác, anh Vũ Minh T không lo cho gia đình, vợ con nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã. Chị V và anh T không còn chung sống với nhau từ năm 2016 cho đến nay. Từ đó vợ chồng không quan tâm nhau mà bỏ mặc nhau.

Nay chị Nguyễn Thị Bích V nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Vũ Minh T.

Về con chung: Chị V và anh T có 01 con chung tên Vũ Ngọc Gia H, sinh ngày: 17/12/2015. Hiện nay cháu H đang chung sống với chị V, khi ly hôn chị V yêu cầu được nuôi cháu H và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị V trình bày không có Về nợ chung: Chị V trình bày không có Về án phí: Chị V đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Vũ Minh T được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án nhưng anh Vũ Minh T vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án không thu thập được ý kiến của anh Vũ Minh T đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bích V.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Việc chấp hành pháp luật về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu, thực hiện các thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc không có kiến nghị gì về tố tụng.

Về nội dung: chị Nguyễn Thị Bích V và anh Vũ Minh T kết hôn năm 2014. Trong cuộc sống vợ chồng, chị V, anh T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V với anh T. Hiện nay cháu Hân hiện đang ở với chị V nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu H, sinh ngày 17/12/2015 cho chị Nguyễn Thị Bích V trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Bích V có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt; anh Vũ Minh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Bích V theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự và xét xử vắng mặt anh Vũ Minh T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích V và anh Vũ Minh T tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2014 tại UBND xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Do đó, quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu của các đương sự thì thấy: Chị V yêu cầu được ly hôn với anh T vì chị V cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, bất đồng quan điểm sống, tính tính không hợp, mâu thuẫn trầm trọng, anh chị không còn chung sống với nhau từ năm 2016 đến nay. Từ khi không còn sống chung anh chị bỏ mặc cuộc sống của nhau, mạnh ai người đó sống, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Vũ Minh T để làm việc và tiến hành hòa giải nhưng anh Vũ Minh T đều vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy anh T không có thiện chí đoàn tụ vợ chồng. Mặt khác, tại biên bản xác minh ngày 15/4/2019 thể hiện anh Vũ Minh T đang cư trú và sinh sống tại nhà cha mẹ ruột của anh T là ông Vũ Văn Lượng và bà Đinh Thị Mùi và không còn chung sống với chị V. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa chị V và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận cho chị V được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: chị V có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung là cháu H, sinh ngày: 17/12/2015 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T vắng mặt nên không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện nay cháu H đang sinh sống cùng với chị V nên cần thiết giao con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Chị V không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị V xác định không có, anh T vắng mặt không có ý kiến nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích V phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các Điều 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bích V.

Chị Nguyễn Thị Bích V được ly hôn với anh Vũ Minh T.

Giy chứng nhận kết hôn số 91, quyển số 01/2014 do UBND xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 07/8/2014 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày: 17/12/2015 cho chị Nguyễn Thị Bích V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

Chị Nguyễn Thị Bích V không yêu cầu anh Vũ Minh T cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết.

Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật bảo vệ.

- Tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích V phải nộp 300.000đồng (ba trăm ngàn) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000đồng (ba trăm ngàn) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 007165 ngày 22/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L được chuyển thành tiền án phí. Chị Nguyễn Thị Bích V đã nộp đủ.

Chị Nguyễn Thị Bích V và anh Vũ Minh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về