TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 33/2019/DS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2019/TLST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2019/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng A;
Địa chỉ trụ sở: Số D, đường N, Phường E, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của Nguyên đơn: Ông Đỗ Minh T – Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc M – Cán bộ Ngân hàng A (theo văn bản ủy quyền số 72/UQ-SOC.19 ngày 09-10-2019).
Địa chỉ: Số G, đường T, Phường C, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt);
- Bị đơn: 1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1969 (vắng mặt);
2. Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Số nhà A, ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 17-8-2018 và quá trình giải quyết vụ án người đại diện của nguyên đơn Ngân hàng A trình bày:
Căn cứ vào thỏa thuận về các điều khoản và điều kiện tín dụng cũng như hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015 giữa Ngân hàng A (tên viết tắt A) với ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C. Theo đó Ngân hàng A sẽ cấp tổng mức tín dụng là 700.000.000 đồng và đã giải ngân số tiền 700.000.000 đồng vào ngày 22-12-2015 theo khế ước nhận nợ số 208627969 ngày 22-12-2015 với thời hạn vay 84 tháng (từ 22-12-2015 đến 22-12-2022). Mục đích vay: Sản xuất kinh doanh - Cho vay hỗ trợ vốn kinh doanh - Bổ sung vốn thiếu hụt thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Lãi suất cho vay trong hạn 10%/ năm.
Lãi suất được cố định trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày vay lần đầu. Sau đó lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/ lần theo công thức: Lãi suất vay (%/năm) = LS13(%/năm) + 3,9(%/năm) + X.
Lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.
Nợ gốc và lãi được trả sau 03 tháng một lần được xác định 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền vào tháng đầu tiên của mỗi kỳ hạn 03 tháng, trừ trường hợp có thêm thỏa thuận khác. Đối với kỳ trả nợ lãi cuối cùng được xác định vào ngày tương ứng với ngày nhận tiền vay lần đầu.
Khoản vay trên được đảm bảo bằng việc thế chấp tài sản là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp số SOC.BĐCN.174.181215 ngày 21- 12-2015 được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Trần Đề ngày 21-12-2015 đối với các tài sản gồm:
+ Phần đất có diện tích 260,5m2 loại đất ở tại nông thôn thuộc thửa số D, tờ bản đồ số H tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H;
+ Phần đất có diện tích 752m2 (gồm có 300m2 đất ở tại nông thôn và 452m2 đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa số 696, tờ bản đồ số 8 tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 164421 ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H;
Trong quá trình vay vốn, ông H bà C đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, ngày 10-5-2018, Ngân hàng A đã ra thông báo thu hồi nợ trước hạn và ngày 10-6-2018 Ngân hàng A đã chuyển toàn bộ số nợ vay chưa thanh toán sang nợ quá hạn.
Đến ngày 17-5-2018, ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C còn nợ Ngân hàng A các khoản sau:
+ Vốn 499.984.000 đồng;
+ Lãi 24.069.325 đồng.
Tổng cộng là 524.053.325 đồng.
Nay Ngân hàng A yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
Buộc ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C trả cho Ngân hàng A tổng số tiền tính đến ngày 17-5-2018 là 524.053.325 đồng. Trong đó vốn 499.984.000 đồng và tiền lãi 24.069.325 đồng.
Buộc ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C phải chịu lãi phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng kể từ ngày 18-5-2018 cho đến khi trả dứt nợ theo thứ tự thanh toán: Vốn gốc, phí, các khoản phí phải trả, lãi quá hạn, lãi trong hạn.
Trường hợp ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản đảm bảo được giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý để thu hồi nợ.
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Ngân hàng A đã nộp các tài liệu chứng cứ sau:
- Thỏa thuận về các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng chung số SOC.CN.420.181215 ngày 21-12-2015 (bản sao chứng thực);
- Hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015 (bản sao chứng thực).
- Khế ước nhận nợ số 208627969 ngày 22-12-2015 (bản sao chứng thực).
- Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số SOC.BĐCN.174.181215 ngày 21-12- 2015 (bản sao chứng thực);
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX do Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H (bản sao chứng thực);
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 164421 do Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H (bản sao chứng thực).
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C đã được ông Nguyễn Văn H nhận các văn bản tố tụng của Tòa án. Do đó việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về số tiền vay gốc, số tiền lãi trong hạn và bổ sung tính lãi quá hạn tạm tính đến ngày xét xử yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng A các khoản tiền theo hợp đồng tín dụng số SOC.CN.421.181512 ngày 21-12-2015 tạm tính đến ngày 28-11-2019 tổng cộng là 652.861.309 đồng (trong đó vốn gốc là 499.984.000 đồng và tiền lãi trong hạn 26.698.013 đồng và lãi quá hạn là 126.179.295 đồng) và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ theo thứ tự thanh toán: Vốn gốc, phí, các khoản phí phải trả, lãi quá hạn, lãi trong hạn. Trường hợp ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản đảm bảo được giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý để thu hồi nợ. Bên cạnh đó phí bị đơn phải chịu án phí và các chi phí tố tụng theo quy định.
Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề tại phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đúng nghĩa vụ theo Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng A số tiền vốn và lãi vay tính đến ngày 29-11-2019 là 652.861.309 đồng (trong đó vốn gốc là 499.984.000 đồng và tiền lãi trong hạn 26.698.013 đồng và lãi quá hạn là 126.179.295 đồng) và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp buộc ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng A không còn khả năng trả nợ, thì ngân hàng được quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để ngân hàng thu hồi nợ. Nguyên đơn không phải chịu án phí, bị đơn phải chịu án phí và các chi phí tố tụng theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
[1.2] Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa hôm nay Ngân hàng A yêu cầu ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C thanh toán Hợp đồng tín dụng tính đến ngày 28- 11-2019 tổng số tiền là: 652.861.309 đồng (trong đó vốn gốc là 499.984.000 đồng và tiền lãi trong hạn 26.698.013 đồng và lãi quá hạn là 126.179.295 đồng) và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ theo thứ tự thanh toán và yêu cầu tính lãi đến khi trả dứt nợ được xác định đây là vụ án dân sự với quan hệ tranh chấp là Hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng A khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C trả số tiền gốc, lãi còn nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng số SOC.CN.421.181512 ngày 21-12-2015 và ông H bà C có địa chỉ tại số A, ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Theo các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh và tài liệu do Ngân hàng cung cấp, căn cứ khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định: Ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có vay của Ngân hàng A - Chi nhánh Sóc Trăng 700.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015 trong thời hạn vay 84 tháng (từ 22-12-2015 đến 22-12-2022) để Sản xuất kinh doanh - Cho vay hỗ trợ vốn kinh doanh - Bổ sung vốn thiếu hụt thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Nợ gốc và lãi được trả sau 03 tháng một lần được xác định 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền vào tháng đầu tiên của mỗi kỳ hạn 03 tháng, trừ trường hợp có thêm thỏa thuận khác. Đối với kỳ trả nợ lãi cuối cùng được xác định vào ngày tương ứng với ngày nhận tiền vay lần đầu.
Lãi suất cho vay trong hạn 10%/ năm; Lãi suất được cố định trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày vay lần đầu. Sau đó lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/ lần theo công thức: Lãi suất vay (%/năm) = LS13(%/năm) + 3,9(%/năm) + X; Lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C đã thế chấp tài sản để đảm bảo cho số tiền vay là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp số SOC.BĐCN.174.181215 ngày 21-12-2015 được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Trần Đề ngày 21-12-2015 đối hai thửa đất:
+ Phần đất có diện tích 260,5m2 loại đất ở tại nông thôn thuộc thửa số D, tờ bản đồ số H tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H;
+ Phần đất có diện tích 752m2 (gồm có 300m2 đất ở tại nông thôn và 452m2 đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa số 696, tờ bản đồ số 8 tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 164421 ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H;
[2.2] Vào ngày 22-12-2015, ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C đã nhận số tiền vay 700.000.000 đồng theo Khế ước nhận nợ số 208627969 ngày 22-12-2015. Tính đến ngày ngày 28-11-2019 tổng số tiền là: 652.861.309 đồng (trong đó vốn gốc là 499.984.000 đồng và tiền lãi trong hạn 26.698.013 đồng và lãi quá hạn là 126.179.295 đồng).
[3] Do ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận nên việc Ngân hàng yêu cầu trả số tiền còn nợ nêu trên là có căn cứ, phù hợp với nội dung thỏa thuận về trả nợ gốc và lãi, tính lãi tiền vay, chuyển nợ quá hạn tại các Điều 5, Điều 7 của Thỏa thuận về các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng chung số SOC.CN.420.181215 ngày 21-12-2015 và Điều 2, Điều 3 của Hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015 cũng như quy định tại các điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng và hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm ngày 11-01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[4] Đối với hợp đồng thế chấp tài sản và tài sản thế chấp:
[4.1] Đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số SOC.BĐCN.174.181215 ngày 21-12-2015 được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Trần Đề ngày 21-12-2015 đối hai thửa đất: Phần đất có diện tích 260,5m2 loại đất ở tại nông thôn thuộc thửa số 4 và phần đất có diện tích 752m2 (gồm có 300m2 đất ở tại nông thôn và 452m2 đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa số 696, cùng tờ bản đồ số 8 tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX và BX 164421 cùng ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H. Xét thấy, hình thức và nội dung của Hợp đồng thế chấp trên phù hợp với quy định của pháp luật và việc thế chấp có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên Hợp đồng thế chấp nêu trên có giá trị pháp lý và có hiệu lực thi hành.
[4.2] Đối với tài sản thế chấp: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp và thấy rằng trên phần đất thế chấp của hai thửa số 4 và 696 đã được ông Nguyễn Văn H xây dựng nhà kho với kết cấu khung cột bê tông, cốt thép; nền láng xi măng; vách tường lững và tol thiếc; đòn tay thép và gỗ; Mái tol sóng vuông. Nhà kho được sử dụng để chứa rơm do ông Nguyễn Văn H đang quản lý. Đối với tài sản gắn liền trên đất là nhà kho chứa rơm trên phần đất thế chấp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và không ghi vào Hợp đồng thế chấp. Vấn đề này Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 325 Bộ Luật dân sự năm 2015 “…1. Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Do đó Ngân hàng yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là phần đất và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất để Ngân hàng thu hồi nợ nếu ông H bà C không có khả năng thanh toán nợ vay là có cơ sở chấp nhận.
[5] Từ những phân tích trên, đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A.
[6] Về các vấn đề khác: Trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn Ngân hàng A có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 12-9-2019 về việc cấp xuất cảnh đối với ông Nguyễn Văn H theo quy định tại khoản 13 Điều 114 của Bộ luật tố tụng dân sự do phía Ngân hàng xét thấy ông Nguyễn Văn H có khả năng đi nước ngoài trong thời gian sắp tới nhằm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Vấn đề này Hội đồng xét xử xét thấy, tại Điều 4, khoản 4.1 của Hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015 trị giá tài sản thế chấp là hai thửa đất số 696 và số 4 có giá trị 1.000.000.000 đồng và đã được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Trần Đề ngày 21-12-2015 theo hợp đồng thế chấp số SOC.BĐCN.174.181215 ngày 21-12-2015. Bên cạnh đó, ông Nguyễn Văn H đã có ý kiến về toàn bộ tài sản thế chấp là của ông H và hiện đang do ông H quản lý. Trong trường hợp Ngân hàng yêu cầu phát mãi sản tài sản thế chấp ông H thống nhất giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra Ngân hàng không cung cấp được thông tin về việc ông H sẽ xuất cảnh vào thời gian nào, đi đến nước nào cùng một số thông tin cần thiết khác. Vì vậy trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét thấy chưa cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của Ngân hàng.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:
[7.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của Ngân hàng A được chấp nhận nên không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7.2] Về chi phí thẩm định số tiền 800.000 đồng, ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C phải chịu. Ngân hàng A không phải chịu;
[8] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Ngân hàng A có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
[9] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề phát biểu tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 299, 323, 325, 357 và 466 của Bộ luật sự năm 2015; Các điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A:
1/ Buộc ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng A số tiền vốn và lãi vay tính đến ngày 28-11-2019 là 652.861.309 đồng (trong đó vốn gốc là 499.984.000 đồng và tiền lãi trong hạn 26.698.013 đồng và lãi quá hạn là 126.179.295 đồng) và tiếp tục trả lãi theo Hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015 cho đến khi thanh toán dứt nợ theo thứ tự thanh toán.
2/ Kể từ ngày 29-11-2019 ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong Hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12- 2015 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trong Hợp đồng cấp tín dụng số SOC.CN.421.181215 ngày 21-12-2015, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất vì vậy lãi suất mà ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng A cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp theo từng thời điểm thanh toán.
3/ Khi án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng A có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C không thanh toán số tiền trên thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số SOC.BĐCN.174.181215 ngày 21-12-2015 được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Trần Đề ngày 21-12-2015 đối với các tài sản là:
+ Phần đất có diện tích 260,5m2 loại đất ở tại nông thôn thuộc thửa số D, tờ bản đồ số H tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H;
+ Phần đất có diện tích 752m2 (gồm có 300m2 đất ở tại nông thôn và 452m2 đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa số 696, tờ bản đồ số 8 tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 164421 ngày 06-02-2015 cho ông Nguyễn Văn H;
+ Trên phần đất thế chấp của hai thửa số 4 và 696 cùng tờ bản đồ số 8 tọa lạc ấp Đầy H, xã Thạnh Thới A, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng có xây dựng nhà kho với kết cấu khung cột bê tông, cốt thép; nền láng xi măng; vách tường lững và tol thiếc; đòn tay thép và gỗ; Mái tol sóng vuông. Nhà kho được sử dụng để chứa rơm do ông Nguyễn Văn H xây dựng và đang quản lý.
4/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C phải liên đới nộp 30.114.452 đồng (Ba mươi triệu, một trăm mười bốn nghìn, bốn trăm năm mươi hai đồng).
Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 14.229.241 đồng theo biên lai thu số 0005782 ngày 18-6- 2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.
5/ Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C phải liên đới chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng). Sau khi ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C nộp thì giao trả cho Ngân hàng A vì Ngân hàng đã nộp tạm ứng xong.
6/ Về quyền kháng cáo: Ngân hàng A có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Kim C có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án 33/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 33/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về