Bản án 33/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 33/2018/HS-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2018/HSST ngày 09 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo: 

Lê Văn H sinh ngày 20 tháng 10 năm 1972; sinh, trú quán: Thôn M - xã T- huyện V - tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M và bà Bùi Thị Đ; có vợ là Lê Thị T và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2018 đến ngày 28/3/2018 chuyển tạm giam (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 22/3/2018, tại thôn Đ, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện Vĩnh Tường bắt quả tang Lê Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu tại tay trái Lê Văn H đang cầm 01 ( một) gói nilon màu đen bên trong bọc giấy chứa chất bột màu trắng, Hồng khai nhận đó là gói ma túy Heroine của H vừa mua được với giá 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) với mục đích sử dụng cho bản thân. Tang vật được niêm phong vào một phong bì thư theo đúng thủ tục pháp luật, ký hiệu A1.

- Tạm giữ của Lê Văn H một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen đã cũ có BKS: 88K84 – 4535.

Ngoài ra không thu giữ, tạm giữ gì khác.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Vĩnh Tường đã ra quyết định trưng cầu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lê Văn H tàng trữ trái phép chất ma túy đến phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc để giám định xác định mẫu vật  ký hiệu A1 gửi giám định có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy không, loại chất ma túy, tiền chất gì? khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Khối lượng chất ma túy của mẫu gửi giám định là bao nhiêu?

Ngày 27/3/2018, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc có bản kết luận giám định số 403/KLGĐ, kết luận:

“Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, TT20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,2095g (không phảy hai không chín năm gam, không kể bao bì). Khối lượng Heroine trong 0,2095 gam mẫu là 0,1509 g ( Không phảy một năm không chín gam)”. 

Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho Cơ quan trưng cầu gồm: 0,0630 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong dán kín trong cùng một bao giấy gói “MẪU TRẢ”, trên giáp lai có chữ ký của người tham gia đóng gói niêm phong và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường, Lê Văn H khai nhận

Khoảng 19 giờ ngày 22/3/2018, Lê Văn H đang ở nhà thì nảy sinh nhu cầu sử dụng ma túy nên H mang theo 200.000 đồng ( gồm 02 tờ tiền Polime mệnh giá mỗi tờ là 100.000 đồng) và điều khiển xe mô tô BKS: 88K4- 4535 đi một mình từ nhà đến ngõ số 8 thuộc thôn Đ, thị trấn T, huyện V để mua ma túy về sử dụng. H đi sâu vào trong  ngõ thì gặp một người đàn ông không quen biết, khoảng gần 40 tuổi dáng người gầy, cao khoảng 1m56 và không rõ tên tuổi địa chỉ, H đi lại gần và hỏi “Anh có hàng không bán cho em cái hai trăm”, người đàn ông đó hiểu ý của H muốn mua một gói ma túy Heroine với giá 200.000 đồng nên đồng ý và nói “Đưa tiền đây”. H lấy từ trong túi quần ra số tiền 200.000 đồng đưa cho người đàn ông đó. Người đàn ông đó cầm tiền H đưa cất vào túi quần đang mặc, sau đó đưa lại cho H một gói ma túy Heroine bọc bên ngoài bằng nilon màu đen. H cầm gói ma túy ở tay trái và điều khiển xe mô tô về nhà, khi đi đến đầu ngõ số 8 thuộc thôn Đ, thị trấn T thì bị Công an huyện Vĩnh Tường kiểm tra, bắt quả tang H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cùng tang vật chứng.

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT-VKS-VT ngày 09 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lê Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng:Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Tường, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về nội dung: Bị cáo Lê Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập khách quan, đúng pháp luật, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ ngày 22/3/2018, tại thôn Đ, thị trấn T, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện Vĩnh Tường bắt quả tang Lê Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 0,1509 g ( Không phảy một năm không chín gam) ma túy heroine. Bị cáo Hồng khai nhận đây là số ma tuý của bị cáo tàng trữ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của H đã đủ yếu tố để cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.

[3]. Xét tính chất và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Ma túy là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật, giết người. Xét thấy với tình hình tội phạm về ma tuý đang ngày một gia tăng, có diễn biến hết sức phức tạp trên địa bàn huyện, khiến dư luận xã hội bất bình lên án. Do vậy, để đảm bảo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương cũng như lập lại trật tự công cộng, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong tình hình hiện nay.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức đầy đủ về tác hại của ma tuý, nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, chí thú làm ăn, chăm lo cho gia đình mà lao vào con đường nghiện ngập. Bản thân bị cáo đã từng bị Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Tường ra quyết định bắt buộc chữa bệnh tại Trung tâm giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc với thời hạn 02 năm về hành vi nghiện chất ma tuý. Bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội để thoả mãn nhu cầu cá nhân. Do vậy cần xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét cho bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào. Xét thấy, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật và yên tâm cải tạo.

[5]. Về hình phạt bổ sung, xét thấy: Bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập bấp bênh, không có tài sản nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Đối với đối tượng bán ma túy cho H theo lời khai của H như đã nêu trên, quá trình điều tra cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Tường đã tiến hành làm việc với Công an thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường để xác định đối tượng đã bán ma túy cho H vào ngày 22/3/2018. Kết quả rà soát, xác minh xác định trên địa bàn thị trấn T không phát hiện được đối tượng nào có đặc điểm như đã nêu trên. Do đó Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục rà soát, xác minh khi nào có làm rõ sẽ xử lý theo quy định.

[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen (đã cũ) có BKS: 88K4-4535 tạm giữ của Lê Văn H, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị T – SN: 1973 ( là vợ của H), trú tại thôn M, xã T, huyện V, chị T không biết việc H sử dụng chiếc xe mô tô này làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng. Do vậy ngày 23/4/2018, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Vĩnh Tường đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị T. Nhận lại tài sản, chị T không đề nghị gì.

Đối với 0,0630 gam mẫu vật cùng toàn bộ bao gói do Cơ quan giám định hoàn trả sau giám định, cần phải tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 01(một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ 22/3/2018.

Về các vấn đề khác: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn trả sau giám định gồm “MẪU TRẢ” có tổng trọng lượng là 0,0630 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Bị cáo Lê Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về