Bản án 33/2018/HNGĐ-ST ngày 25/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN Q. THANH KHÊ – TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 33/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2018/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 02 năm 2018 về tranh chấp "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXX-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V, sinh năm 1988. Địa chỉ: Tổ A, phường X, quận T, TP Đà Nẵng (có mặt).

- Bị đơn:Ông Phạm Văn T, sinh năm 1988. Địa chỉ: Số nhà A, tổ B, phường X, quận T, TP Đà Nẵng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 22.01.2018 và trình bày tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn – bà Nguyễn Lê Thị Tường V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Phạm Văn T kết hôn vào năm 2012, đăng ký tại UBND phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với gia đình ông T tại tổ 52 phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng thời gian từ 03 năm nay vợ chồng tôi không có tiếng nói chung thường xuyên xảy ra cãi vã nhau. Do mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, nên chúng tôi đã sống ly thân nhau từ năm 2015 đến nay. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông Phạm Văn T.

- Về con chung: Không có.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Ông Phạm Văn T không có văn bản phản hồi, không tham gia các buổi hòa giải và không có mặt tại phiên tòa nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

* Qua việc xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa bà V và ông T là đúng như lời trình bày của nguyên đơn. Do mâu thuẫn gia đình nên bà V về lại nhà cha mẹ ruột của mình sinh sống từ năm 2015 cho đến nay, còn ông T ở lại sống với gia đình tại tổ 52 phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Tòa án nhân dân quận Thanh khê đã căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Tòa án đã tiến hành việc thu thập chứng cứ đảm bảo theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự.

Thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng đảm bảo theo các điều: 171, 177 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định của pháp luật.

- Đối với các đương sự:

+ Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng;

+ Bị đơn, mặc dù đã được Tòa án thực hiện việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng trình tự do pháp luật quy định, nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến, không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều: 70, 71,72 và 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Việc bà Nguyễn Lê Thị Tường V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Phạm Văn T là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho bà V được ly hôn với ông T

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V xácđịnh không có nên  không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Văn T có hộ khẩu thường trú tại: Tổ 52 phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng.

Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng trình tự do pháp luật quy định, nhưng bị đơn - ông Phạm Văn T vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình, không có mặt tại phiên tòa. Do vậy, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V và ông Phạm Văn T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Lê Thị Tường V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với ông Phạm Văn T, lý do là tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét yêu cầu của bà V thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thực sự đạt được khi cả vợ chồng cùng yêu thương, chia sẻ, quan tâm nhau. Qua xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn như bà V trình bày là có thật. Do mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nên bà V và ông T đã sống ly thân, không còn quan tâm cũng như không còn trách nhiệm gì với nhau nữa.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng vẫn không thực hiện được do ông Phạm Văn T không hợp tác, điều này thể hiện ông T không có thiện chí để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Vì vậy HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức độ trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V đối với ông T là thoả đáng, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V xác định không có.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V xác định không có nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V phải chịu 300.000 đồng án phíhôn nhân và gia  đình sơ thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 2 Điều 227 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn” của bà Nguyễn Lê Thị Tường V đối với ông Phạm Văn T.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Lê Thị Tường V được ly hôn với ôngPhạm Văn T

2. Về án phí: Bà Nguyễn Lê Thị Tường V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà V đã nộp tại biên lai thu số 008018 ngày 08.02.2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà Nguyễn Lê Thị Tường V đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HNGĐ-ST ngày 25/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:33/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về