Bản án 331/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 331/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Vào các ngày 22 và 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 314/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 334/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức V, sinh năm 1980, tại tỉnh Hải Phòng; nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã T, huyện B, thành phố Hải Phòng; Chỗ ở: Số 775/98B, khu phố L, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ và 02 người con; tiền án: Ngày 09/7/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 31/2018/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/10/2018, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 cho đến nay.

2. Nguyễn Hữu T, sinh năm 1993, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi ĐKNKTT: Ấp L, xã Đ, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Khu phố Đ, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Đinh Thị Hồng L; bị cáo có vợ và 01 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 24/8/2019 được tại ngoại.

3. Trần Văn P, sinh năm 1993, tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi ĐKNKTT: Số 140, tổ 6, ấp 6, xã R, huyện M, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Khu phố Đ, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ nhưng chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 24/8/2019 được tại ngoại.

4. Đàm L, sinh năm 1973, tại tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký NKTT: Số 944/49, khu phố 4, phường P, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Số 17/7B, khu phố P, phường B, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàm T và bà Nguyễn Kim A; bị cáo có vợ và 03 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 24/8/2019 được tại ngoại.

5. Danh S, sinh năm 1996, tại tỉnh Kiên Giang; nơi ĐKNKTT: Ấp H, xã C, huyện T, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: Khu phố Đ, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Khơmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh M và bà Ngô Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 24/8/2019 được tại ngoại.

6. Nguyễn A, sinh năm 1986, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở: Số 18/1, khu phố A, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn K (chết) và bà Phan Thị N; bị cáo có vợ và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 17/9/2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm.

7. Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1982, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở: Khu phố L, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X và bà Võ Thị Q bị cáo có vợ và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 17/9/2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm.

8. Hồ Duy K, sinh năm 1986, tại tỉnh Cà Mau; nơi ĐKNKTT: Số 668, Tổ 3, ấp N, xã H, huyện G, tỉnh Bình Dương; Chỗ ở: Khu phố Đ, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Hoàng K và bà Nguyễn Thị T (chết); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 24/8/2019 được tại ngoại.

Các bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

o khoảng 20 giờ 30 phút ngày 14/8/2019, lực lượng tuần tra Công an phường Bình Hòa phát hiện bắt quả tang Đàm L, Hồ Duy K, Nguyễn Đức V, Trần Văn P, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Nguyễn Hữu T đang thực hiện việc đánh bạc bằng hình thức “đánh bài cào liên” thắng thua bằng tiền tại phòng trọ của Danh S tại địa chỉ 69/5A9 khu phố Đ, phường H, thị xã Thuận An, Bình Dương.

Vật chứng thu giữ: số tiền 4.700.000 đồng tại chiếu bạc, 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, số tiền 4.000.000 đồng của Đàm L, số tiền 1.000.000 đồng của Hồ Suy Khánh, số tiền 2.000.000 đồng của Nguyễn Đức V, số tiền 3.500.000 đồng của Trần Văn P, số tiền 3.000.000 đồng của Nguyễn A, số tiền 1.100.000 đồng của Nguyễn Hữu T.

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 14/8/2019 L, K, V, P, H, A và T đến phòng trọ của Danh S tại địa chỉ 69/5A9 khu phố Đ, phường H, thị xã A, Bình Dương và cùng rủ nhau chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức bài cào liên, tỷ lệ đặt tiền cược mỗi ván từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng. Cách thức chơi là sử dụng bộ tài tây 52 lá chia cho mỗi người chơi 03 lá bài, sau đó người chơi sẽ tố thêm tiền nhưng không quá 200.000 đồng, nếu ai không theo tố thì úp bài được coi là thua. Ai có số điểm lớn hơn thì sẽ thắng được tất cả số tiền của những người chơi đã tố và tiền đã đặt cược, kết thúc mỗi ván người nào thắng sẽ làm nhà cái và sẽ tố tiền đầu tiên cho ván tiếp theo. Riêng Sang sử dụng phòng trọ của mình để cho các đối tượng thực hiện hành vi đánh bạc, không trực tiếp tham gia đánh bạc và giúp các đối tượng mua bài, thức ăn, nước uống phục vụ trong suốt quá trình chơi. Đến cuối buổi chơi, ai là người thắng nhiều tiền sẽ đưa cho Sang từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Số tiền đánh bạc cụ thể như sau:

- Đàm L mang theo 4.000.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc, thắng 1.100.000 đồng, bị thu giữ trong người 4.000.000 đồng và 1.100.000 đồng tại chiếu bạc.

- Hồ Duy K mang theo 800.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc, thắng 400.000 đồng, bị thu giữ trong người 1.000.000 đồng và 200.000 đồng tại chiếu bạc.

- Nguyễn Đức V mang theo 3.000.000 đồng, sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, thua 200.000 đồng, bị thu giữ trong người 2.000.000 đồng và 800.000 đồng tại chiếu bạc.

- Trần Văn P mang theo 5.300.000 đồng, sử dụng 1.800.000 đồng để đánh bạc, thua 1.200.000 đồng, bị thu giữ 4.000.000 đồng trong người và 100.000 đồng tại chiếu bạc.

- Nguyễn Mạnh H mang theo 1.600.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc, thua 300.000 đồng, bị thu giữ 1.300.000 đồng tại chiếu bạc.

- Nguyễn A mang theo 3.700.000 đồng, sử dụng 1.700.000 đồng để đánh bạc, thua 600.000 đồng, bị thu giữ trong người 3.000.000 đồng và 100.000 đồng tại chiếu bạc.

- Nguyễn Hữu T mang theo 1.400.000 đồng, sử dụng hết đánh bạc, không thắng cũng không thua, bị tạm giữ trong người 1.100.000 đồng và 250.000 đồng tại chiếu bạc.

- Danh S không tham gia trực tiếp đánh bạc, khi bị bắt quả tang không thu giữ gì.

Tổng số tiền đánh bạc là 12.300.000 đồng.

Bản cáo trạng số 317/CT-VKS-TA ngày 06/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố các bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Đức V, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu và không có ý kiến gì về nội dung bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đề nghị:

Áp dụng Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối xử phạt bị cáo Nguyễn Đức V từ 9 tháng đến 12 tháng tù.

Áp dụng Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P mỗi người từ 6 tháng tù đến 8 tháng tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.300.000 đồng.

Trả cho cho các bị cáo số tiền sau:

1/ Nguyễn Đức V: 2.000.000 đồng.

2/ Trần Văn P: 3.500.000 đồng.

3/ Nguyễn A: 2.000.000 đồng.

Các bị cáo thống nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ nên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20 giờ 30 ngày 14/8/2019 Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Đức V, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P đang tiến hành chơi bạc dưới hình thức “đánh bào cào liên” được thua bằng tiền tại tại phòng trọ của Danh S tại địa chỉ 69/5A9 khu phố Đ, phường H, thị xã A, Bình Dương thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Riêng đối với bị cáo Danh S, trong quá trình điều tra xác định không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng Sang đã có hành vi sử dụng phòng trọ của mình cho các con bạc thực hiện hành vi đánh bạc và giúp các đối tượng mua bài, thức ăn, nước uống phục vụ trong suốt quá trình chơi để hưởng lợi ích vật chất. Do đó, hành vi của Danh S đã đồng phạm vào tội Đánh bạc với vai trò là người giúp sức. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.300.000 đồng.

Hành vi đánh bạc (đánh phỏm) được thua bằng tiền không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhằm sát phạt lẫn nhau với số tiền 12.300.000 đồng do các bị cáo nêu trên thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm nhưng vì đam mê cờ bạc, bất chấp pháp luật nên các bị cáo đã dùng tiền để thắng thua với nhau thông qua hình thức đánh phỏm đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Đây là một trong những tệ nạn xã hội thường dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng khác. Lỗi của các bị cáo là cố ý trực tiếp nên cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của mỗi bị cáo nhằm đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Trước khi phạm tội các bị cáo có sự thống nhất với nhau từ trước nên vụ án mang tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn.

Xét về vai trò: Các bị cáo có vai trò ngang nhau vì số tiền từng bị cáo bỏ ra đánh bạc chênh lệch với nhau không lớn và không xác định được ai là người rủ rê đề xướng nên hình phạt các bị cáo ngang nhau. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo.

+ Về nhân thân: Ngày 28/9/2012, bị cáo V bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu của Cơ quan tổ chức nên có nhân thân xấu.

Các bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P có nhân thân tốt.

+ Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

Đối với bị cáo V ngày 09/7/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 31/2018/HS-ST. Ngày 24/10/2018, chấp hành xong hình phạt tù. Đối với bản án này bị cáo chưa được xóa án tích nhưng lại phạm tội mới nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

+ Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đề nghị áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vịnh và áp dụng điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là phù hợp.

Từ những nhận định nêu trên, xét thấy việc Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của từng bị cáo. Tuy nhiên cần áp dụng hình thức phạt tiền cũng đủ sức răn đe.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 12.300.000 đồng thu giữ trong vụ án do liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng thu giữ trong vụ án do liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[4] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P.

- Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức V.

- Các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự

- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức V, Hồ Duy K, Nguyễn Hữu T, Đàm L, Danh S, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn A và Trần Văn P phạm tội “Đánh bạc”;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức V 30.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Hồ Duy K 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Đàm L 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Danh S 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Nguyễn A 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Trần Văn P 20.000.000 đồng

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng;

Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.300.000 đồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2019 và Ủy nhiệm chi ngày 29/10/2019 giữa Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An).

3. Về án phí: Mi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 331/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:331/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về