TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 330/2019/HS-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 22 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 273/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 292/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 448/2019/HSST-QĐ ngày 10/7/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh B ; sinh ngày 05/9/1992 tại thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: 43, lô A, khu phố 3, phường B, quận Đ, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 12/12; Tham gia Đảng, đoàn thể: không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha Nguyễn Tường V ( Nguyễn Văn V), sinh năm 1958, họ tên mẹ Vũ Thị T, sinh năm 1964, gia đình có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; Họ tên vợ Lê Thị Kim A, sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 09/12/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số 36 ngày 17/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Ngày 05/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn và bị áp dụng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh. Hiện bị cáo được tại ngoại. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 05/6/2018, thông qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Thanh B có đặt mua của một đối tượng có Nickname là Trương Quang T số lượng pháo nổ gồm: 20 hộp pháo dàn ống 36, 25 hộp pháo dàn ống 49, 02 hộp pháo dàn ống 16, 01 hộp pháo xoay và 60 viên pháo quả trứng do nước ngoài sản xuất với giá 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng). Đến ngày 12/6/2018, B nhận toàn bộ số pháo trên tại Bến xe A, thành phố Hồ Chí Minh rồi mang về nhà B tại địa chỉ số 43, lô A, khu phố 3, phường B, quận Đ, thành phố Hồ Chí Minh cất giấu.
Ngày 02/12/2018, có 01 đối tượng tên H (không rõ họ, địa chỉ) gọi điện thoại cho B đặt mua pháo. Sau khi trao đổi với B, H đồng ý mua của B số lượng pháo gồm: 20 hộp pháo dàn ống 36, 25 hộp pháo dàn ống 49, 02 hộp pháo dàn ống 16, 01 hộp pháo xoay và 60 viên pháo quả trứng với giá 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng) và hẹn địa điểm giao pháo tại khu vực gần Ngã tư T, phường L, thành phố B. Khoảng 08 giờ ngày 09/12/2018, B gọi điện thoại cho dịch vụ vận chuyển G để thuê xe, Công ty G điều xe ô tô biển số 60A-540.04 do anh Vũ Ngọc L, sinh năm 1963, ngụ ấp A, xã T, huyện B điều khiển đến chở B. Khi anh L chạy xe đến nhà B, B chuyển hết 04 thùng cát tông bên trong có đựng toàn bộ số pháo H đặt mua trước đó lên xe ô tô và nói với anh L đó là đồ dùng chuyển nhà, rồi B yêu cầu anh L chở B đến phường L, mục đích để B giao pháo cho H. Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 09/12/2018, anh L điều khiển xe chạy tới khu vực khu phố B, phường L, thành phố B, B chưa kịp giao pháo cho H thì bị lực lượng Công an thành phố B phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng vụ án:
- 20 hộp pháo dàn ống 36 (kích thước 14,5cmx14,5cmx15cm); 22 hộp pháo dàn ống 49 (kích thước 17cmx17cmx10cm); 03 hộp pháo dàn ống 49 (kích thước 16,5cmx16,5cmx12cm); 02 hộp pháo dàn ống 16 (kích thước 12cmx 12cmx17cm), 01 hộp pháo xoay hình lục giác kích thước mỗi cạnh 9cm; 60 viên pháo quả trứng dạng hình bóng đèn, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Thanh B.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 B khai sử dụng để liên lạc buôn bán pháo với đối tượng tên “H”.
- 02 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại hiệu Samsung Note 5 và 01 điện thoại hiệu Nokia là tài sản của Nguyễn Thanh B, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho B.
- 01 xe ô tô biển số 60A-540.04 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo là tài sản của anh Vũ Ngọc L, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh L.
* Tại Bản kết luận giám định số 388/C09B ngày 12/12/2018 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:
“- 01 khối hình chữ nhật kích thước (14,5cm x14,5cm x15cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu.
- 01 khối hình chữ nhật kích thước (17cm x17cm x10cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu.
- 01 khối hình chữ nhật kích thước (12cm x12cm x17cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 17cm, đường kính 3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu.
- 05 vật dạng hình bóng đèn điện tròn, dán giấy bên ngoài, phần đầu hình trụ tròn được nối với đoạn dây, nửa dưới hình tròn vỏ bên trong bằng nhựa gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu.
- 01 khối hộp hình lục giác kích thước mỗi cạnh 9 cm, ở giữa có khối hình cầu bằng nhựa rỗng và 03 ống giấy hình trụ tròn xếp thành hình tam giác gửi giám định là pháo hoa. Khi đốt phát ra ánh sáng màu và không gây tiếng nổ”.
* Tại Công văn bổ sung kết luận giám định số 167/CV/C09B ngày 07/5/2019 đã kết luận:
“- 01 khối hình chữ nhật kích thước (14,5cm x14,5cm x15cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 2,3cm là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Khối lượng 1,37kg.
- 01 khối hình chữ nhật kích thước (17cm x17cm x10cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Khối lượng là 1,7kg.
- 01 khối hình chữ nhật kích thước (12cm x12cm x17cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 17cm, đường kính 3cm là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Khối lượng là 1,09kg.
- 05 vật dạng hình bóng đèn điện tròn, dán giấy bên ngoài, phần đầu hình trụ tròn được nối với đoạn dây, nửa dưới hình tròn vỏ bên trong bằng nhựa đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Tổng khối lượng là 0,18kg”.
* Tại Bản kết luận giám định số 576/C09B ngày 25/12/2018 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:
“- 19 (Mười chín) khối hình chữ nhật kích thước (14,5cm x14,5cm x15cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 15cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ vá phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 26,9kg.
- 21 khối hình chữ nhật kích thước (17cmx17cmx10cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ vá phát ra ánh sáng màu. Tổng khổi lượng là 36,2kg.
- 03 (Ba) khối hình chữ nhật kích thước (16,5cmx16,5cmx12cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 12cm, đường kính 2,3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ vá phát ra ánh sáng màu. Tổng khổi lượng là 5,4kg.
- 01 (Một) khối hình chữ nhật kích thước (12cmx12cmx17cm), bao bì nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 16 ống giấy hình trụ tròn dài 17cm, đường kính 3cm gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ vá phát ra ánh sáng màu. Khối lượng là 1,2kg.
- 55 (Năm mươi lăm) vật dạng hình bóng đèn điện tròn, dán giấy bên ngoài, phần đầu hình trụ tròn được nối với đoạn dây, nửa dưới hình tròn vỏ bên trong bằng nhựa gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 2kg”.
Tại Cáo trạng số 256/CT-VKS-BH ngày 21/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh B về tội “ Buôn bán hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ luật Hình sự .
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và điểm s khoản 1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các tình tiết khoản 2 là chưa có tiền án tiền sự, có cha là thương binh, ông ngoại là Vũ Trọng L được tặng Huân chương kháng chiến là gia đình có công cách mạng quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo có nghề nghiệp thu nhập ổn định chỉ vì ham lợi không có tính mua bán chuyên nghiệp nên xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 35 Bộ luật Hình sự phạt tiền cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng thể hiện được sự nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta. Đề nghị phạt tiền từ 1.000.000.000đ đến 1.200.000.000đ.
Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Tòa án B tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số pháo còn lại sau giám định;
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 của bị cáo B sử dụng vào việc phạm tội.
* Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không phát biểu tranh luận và không bào chữa.
* Trong phần phát biểu lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và hứa không tái phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, sau khi được Hội đồng xét xử và đại diện Viện kiểm sát phân tích và đưa ra các chứng cứ chứng minh, bị cáo Nguyễn Thanh B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, vào ngày 05/6/2018, thông qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Thanh B có đặt mua của một đối tượng có Nickname là Trương Quang T số lượng pháo nổ gồm: 20 hộp pháo dàn ống 36, 25 hộp pháo dàn ống 49, 02 hộp pháo dàn ống 16, 01 hộp pháo xoay và 60 viên pháo quả trứng do nước ngoài sản xuất với giá 21.000.000 đồng. Đến ngày 12/6/2018, B nhận toàn bộ số pháo mua rồi mang về nhà B cất giấu. Đến ngày 02/12/2018, có 01 đối tượng tên H (không rõ họ, địa chỉ) gọi điện thoại cho B đặt mua pháo. Sau khi trao đổi với Bình, Hiệp đồng ý mua của Bình số lượng pháo trên với giá 32.000.000 đồng và hẹn địa điểm giao pháo tại khu vực gần Ngã tư T, phường L, thành phố B. Khoảng 08 giờ ngày 09/12/2018, B gọi điện thoại cho dịch vụ vận chuyển G để thuê xe do anh Vũ Ngọc L điều khiển xe ô tô biển số 60A-540.04 đến chở B đến phường L để B giao pháo cho H. Đến khoảng 09 giờ 50 phút khi anh L điều khiển xe chạy tới khu vực khu phố B, phường L, thành phố B thì bị lực lượng Công an thành phố B phát hiện bắt quả tang.
[3] Đối chiếu lời khai của bị cáo B tại phiên tòa với lời khai của người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập, nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi buôn bán 76,04kg pháo nổ của bị cáo đã phạm vào tội “ Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự, tội danh và hình phạt như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã viện dẫn và truy tố.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là vi phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương về phòng chống cháy nổ làm ảnh hưởng đến tài sản, sức khỏe trong đời sống xã hội nên cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng để răn đe, phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, có cha là thương binh, ông ngoại là Vũ Trọng L được tặng Huân chương kháng chiến là gia đình có công cách mạng, hoàn cảnh gia đình cha mẹ già yếu, con nhỏ là lao động chính trong gia đình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi lượng hình. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo cũng bị tạm giữ một thời gian, bản thân bị cáo là công nhân viên có nghề nghiệp thu nhập ổn định chỉ vì ham lợi không có tính mua bán chuyên nghiệp nên xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nên áp dụng Điều 35 Bộ luật Hình sự phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng thể hiện được sự nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.
[7] Đối với đối tượng tên “Trương Quang T” và đối tượng tên “H” (không rõ lai lịch) có hành vi mua bán pháo nổ với Nguyễn Thanh B, Cơ quan điều tra chưa làm việc được nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[8] Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ còn lại sau giám định tổng số 76,04kg.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 của bị cáo B sử dụng vào việc phạm tội.
- 02 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại hiệu Samsung Note 5 và 01 điện thoại hiệu Nokia là tài sản của Nguyễn Thanh B, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho B là đúng quy định pháp luật.
- 01 xe ô tô biển số 60A-540.04 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo là tài sản của anh Vũ Ngọc L, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh L là đúng quy định pháp luật.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
+ Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190; Điều 35; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh B phạm tội “Buôn bán hàng cấm”
Xử phạt: phạt tiền bị cáo Nguyễn Thanh B số tiền 1.100.000.000đ ( Một tỷ, một trăm triệu đồng).
+ Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, về xử lý vật chứng;
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số pháo còn lại sau giám định;
- 20 hộp pháo dàn ống 36 ( mỗi hộp bên trong còn lại 35 ống)
- 25 hộp pháo dàn ống 49 ( mỗi hộp bên trong còn lại 48 ống)
- 02 hộp pháo dàn ống 16 ( mỗi hộp bên trong còn lại 15 ống)
- 54 viên pháo quả trứng.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 của bị cáo B sử dụng vào việc phạm tội.
(Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/7/2019 của Chi cục THA-DS thành phố B)
+ Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.
- Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án 330/2019/HS-ST ngày 22/07/2019 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 330/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về