Bản án 329/2019/HSST ngày 11/11/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 329/2019/HSST NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 11 tháng 11 năm 2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 322/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 339/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Nguyễn Hữu T - Sinh ngày 24/12/1982, tại TP. Hải Phòng;

Nơi cư trú: số 127, gác 2, L, phường Q, Quận Hồng Bàng, TP. Hải Phòng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu V và bà Nguyễn Thị N; Có vợ: Lê Thị L (Đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2009.

Tiền án: Ngày 06/2/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Ngày 21/10/2019, Tòa án nhân dân quận Kiến An, TP. Hải Phòng xử phạt bị cáo T 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng của bản án số 18/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, buộc T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 24 tháng tù.

Bị bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 02/6/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ và tên: Phạm Văn H - Sinh ngày 29/5/1966, tại TP. Hải Phòng;

Nơi cư trú: Thôn X, xã B, huyện T, TP. Hải Phòng; Hiện ở: Số 4, tổ 24, phố V, phường V, quận L, thành phố Hải phòng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Viết M và Vũ Thị T (đã chết); Có vợ: Phạm Thị D và có 04 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 03/6/2019. Đến ngày 01/8/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn từ Tạm giam sang Bảo lĩnh, hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Chị Vũ Thị Thanh H, sinh năm: 1995, trú tại: tổ 15, khu 4, phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

2. Bà Hoàng Kim T, sinh năm: 1968, trú tại: tổ 11, khu 6, phường Hà, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Việt H, sinh năm: 1977, trú tại: số 8, M, phường Ô, Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

4. Ông Đoàn Hữu V, sinh năm: 1966, trú tại: tổ 34, khu 2, phường B, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

5. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1985, trú tại: số 6/559/14 K, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội.

Đại diện theo uỷ quyền: anh Nguyễn Trung T, sinh năm 1988, trú tại: thôn T, xã Đình Dù, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, vắng mặt.

6. Chị Phan Thị N, sinh năm: 1975. Địa chỉ: tổ 10, khu 3, phường H1, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở hiện nay: Khu đô thị Vinhomes- P, phường Hồng Gai, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

7. Ông Đào Hồng T, sinh năm 1954, trú tại: 34 Đ, phường B, quận 1, TP. Hồ Chí Minh.

Đi diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đạt V, sinh năm 1980, trú tại: tổ 11, khu 2, phường T, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

8. Ông Vũ Minh T1, sinh năm 1960; Địa chỉ: Số 136, phố T, tổ 15, khu 4, phường H, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Đi diện theo ủy quyền: Chị Vũ Thị Thanh H, sinh năm: 1995, trú tại: tổ 15, khu 4, phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

9. Công ty TNHH Xuất nhập khẩu T. Địa chỉ: 36 đường Y, phường Phố Mới, TP. Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Đi diện theo pháp luật: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm: 1968, trú tại: Khách sạn K, số nhà 358, tổ 23, phường P, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

10. Công ty TNHH Thương mại tổng hợp và Dịch vụ vận tải T Địa chỉ: số 48, ngõ 11, đường Đông Khê, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, TP. Hải Phòng.

Đi diện theo uỷ quyền: Anh Trần Đức H, sinh năm: 1974, trú tại: tổ 66, khu 8, phường C, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

11. Công ty TNHH T. Địa chỉ: số 58, phố A, phường Bãi Cháy, TP. Hạ long, tỉnh Quảng Ninh.

Đi diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1961, trú tại: tổ 3, khu 8, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (Có đơn xin xử án vắng mặt).

12. Doanh nghiệp tư nhân T. Địa chỉ: Lô Cn 6, Cụm công nghiệp N, xã Ngọc Hồi, huyện Thành Trì, TP. Hà Nội.

Đi diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1974, trú tại: Số 351 G, phường P, Quận T, thành phố Hà Nội, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đỗ Mạnh T, sinh năm 1985, trú tại: tổ 13, khu 4B, hường H3, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Đào Thắng M, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Thế Q, vắng mặt.

3. Anh Phạm Đức H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 27/4/2019 đến ngày 02/6/2019, Nguyễn Hữu T đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp mặt gương chiếu hậu của xe ô tô trên địa bàn thành phố Hạ Long, với phương thức thực hiện T một mình điều khiển xe mô tô quan sát khu vực nào có xe ô tô đỗ thì T dừng lại dùng tay lấy mặt gương chiếu hậu của xe ô tô, rồi mang về thành phố Hải Phòng để bán lấy tiền ăn tiêu và sử dụng ma túy, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 12 giờ ngày 27/4/2019, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sym Elegant, không có biển kiểm soát (BKS) một mình đi từ thành phố Hải Phòng đến thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh với mục đích để trộm cắp mặt gương chiếu hậu của xe ô tô. Khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày, T đi qua khu vực chung cư Licogi, rồi rẽ vào một ngõ nhỏ thì phát hiện có 01 chiếc xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Mercedes C200, BKS 14A-325. của chị Vũ Thị Thanh H đỗ ở trước cửa nhà, đầu xe hướng vào phía trong, quan sát xung quanh thấy không ai trông coi. T đỗ xe mô tô ở dưới đường rồi đi bộ tiến sát cửa bên trái của xe ô tô và dùng tay phải giật lấy mặt gương chiếu hậu bên trái, có ký hiệu ở mặt sau gương: A099810031, V21326153 của xe ô tô, giấu vào phía trong áo trước bụng rồi điều khiển xe mô tô đi về thành phố Hải Phòng. Đến 18 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến cửa hàng sửa chữa xe mô tô ở số 397, phố T, phường quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng bán cho Phạm Văn H. T nói với H mặt gương chiếu hậu trên là do T trộm cắp được, H biết mặt gương chiếu hậu do T trộm cắp nhưng vẫn đồng ý mua với giá 450.000 đồng. Số tiền này T đã ăn tiêu hết.

Vụ thứ hai: Khong 10 giờ ngày 13/5/2019, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Viva, màu sơn xanh, không BKS đi từ khu vực Lạch Tray đến thành phố Hạ Long để trộm cắp mặt gương chiếu hậu của xe ô tô. Khoảng 13 giờ cùng ngày, T điều khiển xe rẽ vào đường 25/4. Tại đây, T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại 05 chỗ, nhãn hiệu Mercedes GLC250, màu sơn trắng, BKS 30E-238. của Công ty TNHH Thương mại tổng hợp và Dịch vụ vận tải T đang đỗ trước cửa đường lên xuống xe ô tô, tầng hầm của tòa nhà VNPT thuộc tổ 41, khu 3, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, đuôi xe hướng ra đường 25/4, quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi. T đỗ xe mô tô ở đuôi xe ô tô rồi đi đến áp sát người vào cửa xe bên trái, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ra, giấu vào phía trong áo trước bụng rồi ra xe mô tô bỏ đi.

Vụ thứ ba : Sau khi thực hiện vụ thứ hai, Nguyễn Hữu T tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về phía phường Hồng Gai, thành phố Hạ Long. Đi được khoảng 500m thì T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Lexus RX450, màu sơn trắng, BKS 30E-611. của chị Phan Thị N đang đỗ dưới lòng đường trước cửa hàng tiêu dùng Thái Lan thuộc tổ 36, khu 2, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, đầu xe hướng về phía Hồng Gai, quan sát xung quanh thấy sơ hở không có ai trông coi, T điều khiển xe mô tô áp sát cửa bên trái, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên trái của xe, giấu vào phía trong áo trước bụng rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về thành phố Hải Phòng. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến của hàng sửa chữa xe mô tô ở số 397, phố T bán 02 mặt gương chiếu hậu xe ô tô đã lấy được cho Phạm Văn H, H biết 02 chiếc gương chiếu hậu xe ô tô trên là do T trộm cắp được nhưng vẫn đồng ý mua với giá 900.000 đồng. Số tiền này T đã ăn tiêu hết.

Vụ thứ tư: Khoảng 11 giờ ngày 27/5/2019, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sym Elegant, màu sơn đen-đỏ, không BKS đi từ khu vực Lạch Tray đến thành phố Hạ Long để trộm cắp mặt gương chiếu hậu xe ô tô. Khoảng 15 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đi vào khu vực bãi gửi xe ô tô của Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu thuộc phường Tuần Châu, thành phố Hạ Long. Tại đây, T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại xe 05 chỗ, nhãn hiệu Mercedes Benz G63 AMG, màu sơn đen, BKS 51H-000. của ông Đào Hồng T đang đỗ trên tiền sảnh của nhà điều hành, quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi. T đỗ xe mô tô ở bên dưới rồi đi bộ lên vị trí đỗ xe ô tô, vòng qua đuôi xe, áp sát cửa bên trái, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô ra, giấu vào trong áo phía trước bụng rồi T điều khiển xe mô tô đi về thành phố Hải Phòng.

Theo T khai: Khoảng 18 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến của hàng sửa chữa xe mô tô của Đào Thắng M, sinh năm: 1969, ở số 3, phố T, phường H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, bán mặt gương chiếu hậu của xe ô tô nhãn hiệu Mercedes Benz G63 AMG cho Mỹ được 450.000 đồng. Số tiền này T đã ăn tiêu hết.Còn Đào Thắng M khai không mua mặt gương chiếu hậu của xe ô tô Mercedes Benz G63-AMG do Nguyễn Hữu T bán. Cơ quan điều tra đã cho Nguyễn Hữu T và Đào Thắng M đối chất, cả Mỹ và T đều giữ nguyên lời khai của mình.

Vụ thứ năm: Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 29/5/2019, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sym Elegant, màu sơn đen-đỏ, không BKS đi từ khu vực Lạch Tray đến thành phố Hạ Long để trộm cắp mặt gương chiếu hậu xe ô tô. Khoảng 15 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến khu vực nhà của ông Vũ Minh T ở tổ 15, khu 4, phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long. Tại đây, T phát hiện có 01 chiếc xe ô tô con, nhãn hiệu BMW X4, màu đen, BKS 14A-191. của ông T đang đỗ ở trước cửa nhà, đầu xe hướng vào nhà không ai trông coi. T đỗ xe mô tô ở dưới đường rồi đi bộ tiến sát cửa bên trái của xe ô tô, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ra, giấu vào trong áo phía trước bụng rồi lên xe mô tô đi về phía Vincom Hạ Long.

Vụ thứ sáu: Sau khi thực hiện vụ thứ năm, Nguyễn Hữu T tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về phía Vincom Hạ Long. Đi được khoảng 01km thì T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Mercedes E300, màu trắng, BKS 14A-256. của công ty TNHH T đang đỗ trên vỉa hè trước cửa nhà, đầu xe hướng vào nhà, sơ hở không ai trông coi. T đỗ xe mô tô ở dưới lòng đường gần đuôi xe rồi đi, tiến sát cửa bên trái của xe ô tô, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ra, giấu vào trong áo phía trước bụng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi về thành phố Hải Phòng. Khoảng 19 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến của hàng sửa chữa xe mô tô ở số 397, phố T bán cho Phạm Văn H, H biết 02 chiếc gương chiếu hậu xe ô tô trên là do T trộm cắp được nhưng vẫn đồng ý mua với giá 900.000 đồng. Số tiền này T đã ăn tiêu hết.

Vụ thứ bảy: Khoảng 10 giờ ngày 01/6/2019, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, màu sơn xanh-đen, BKS: 14K3-0587 đi từ khu vực Lạch Tray đến thành phố Hạ Long để trộm cắp mặt gương chiếu hậu xe ô tô. Khoảng 12 giờ cùng ngày, T đi qua khu vực chung cư Licogi, phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long thì T phát hiện có 01 chiếc xe ô tô con loại 7 chỗ ngồi, nhãn hiệu Toyota Landcruiser, màu trắng, BKS 30F-635. của bà Hoàng Kim T đang đỗ dưới lòng đường trước cửa nhà, đầu xe ô tô hướng về phía Vincom Hạ Long, thấy sơ hở không có ai trông coi. T điều khiển xe mô tô áp sát cánh cửa bên lái, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu của xe ô tô ra giấu vào trong áo phía trước bụng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi về phía Vincom Hạ Long.

Vụ thứ tám: Sau khi thực hiện vụ thứ bảy, Nguyễn Hữu T tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về phía Vincom Hạ Long. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến khu vực quán bia 365 thuộc tổ 3, khu 8, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại xe 05 chỗ, nhãn hiệu Lexus NX300, BKS 30F-460. của anh Nguyễn Việt H đang đỗ ở trên vỉa hè sát mép đường đi, đầu xe quay về phía quán bia 365, thấy sơ hở không có ai trông coi. T điều khiển xe mô tô đỗ ở dưới lòng đường, đi bộ lên áp sát cánh cửa bên phải của xe, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên phải của xe ra, giấu vào trong áo phía trước bụng rồi lên xe mô tô tiếp tục đi về phía chợ Hạ Long 1.

Vụ thứ chín: Sau khi thực hiện vụ thứ tám, Nguyễn Hữu T tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đến chợ Hạ Long 1 rồi ra khu vực vườn hoa chéo thuộc tổ 38, khu 2, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại 05 chỗ, nhãn hiệu Volvo XC60, màu trắng, BKS 14A-351. của ông Đoàn Hữu V đỗ ở lề đường, đầu xe hướng về phía Cột đồng hồ, thành phố Hạ Long, thấy sơ hở không ai trông coi. T điều khiển xe mô tô đi vòng quanh thân xe ô tô, dùng tay phải lần lượt giật 02 mặt gương chiếu hậu, có ký hiệu mặt sau của gương là G151R214, V31462570 và G151R211, V31462663 của xe ô tô ra, giấu vào trong áo phía trước bụng rồi điều khiển xe mô tô đi về thành phố Hải Phòng.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đến quán sửa chữa xe mô tô ở số 3 T, phường H để bán cho Phạm Văn H. H biết 04 chiếc gương chiếu hậu xe ô tô trên là do T trộm cắp được nhưng vẫn đồng ý mua với giá 1.800.000 đồng. H đưa trước cho T 1.100.000 đồng, nợ lại 700.000 đồng, đến tối cùng ngày thì H trả nốt cho T. Số tiền này T đã ăn tiêu hết.

Đi với 02 chiếc mặt gương chiếu hậu của xe ô tô con, nhãn hiệu Volvo XC60, màu trắng, Phạm Văn H bán cho Đào Thắng M với giá 3.000.000 đồng nhưng chưa tH toán. Khi bán H không nói cho Mỹ biết nguồn gốc số gương trên. Còn hai mặt gương của xe ô tô Toyota Landcruiser và Lexus NX300, H sơ ý làm vỡ nên đã vứt vào xe rác.

Vụ thứ mười: Khoảng 13 giờ ngày 02/6/2019, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, màu sơn xanh-đen, BKS: 14K3- 0587 đi từ khu vực Lạch Tray đến thành phố Hạ Long để trộm cắp mặt gương chiếu hậu xe ô tô. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T đến đoạn gần chân cáp treo Vòng quay mặt trời thuộc khu vực đường bao biển Sungroup, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long thì phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại xe 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Lexus RX350, màu sơn nâu, BKS: 24A-042. của Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu T đang đỗ ở trong đường nhánh đi ra ngọn hải đăng Sungroup, đầu xe hướng về phía biển, quan sát xung quanh thấy sơ hở không ai trông coi. T điều khiển xe mô tô đến đỗ ở gần đuôi xe ô tô, rồi đi bộ xung quanh xe, dùng tay phải lần lượt giật 02 mặt gương chiếu hậu có ký hiệu mặt sau gương là 02192016AS926-1782-001R và SR14009107 của xe ô tô ra, giấu vào trong áo phía trước bụng. Sau đó T điều khiển xe mô tô bỏ đi ra đường bao biển Sungroup.

Vụ thứ mười một: Sau khi thực hiện vụ thứ mười, Nguyễn Hữu T tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về phía bùng binh nhà nghỉ 368, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long.

Khong 16 giờ 15 phút cùng ngày, T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại xe 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Toyota Landcruiser, màu sơn đen, đeo BKS: 30A-167. của Doanh nghiệp tư nhân T đang đỗ ở sát mép đường bên phải chiều đi, đầu xe hướng về phía nhà nghỉ 368, quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi. T điều khiển xe mô tô đến đỗ ở đuôi chiếc xe ô tô rồi đi bộ xung quanh xe, dùng tay phải lần lượt giật 02 mặt gương chiếu hậu có ký hiệu mặt sau gương là 8861626-0690-000BG14C01 và 8861R626-0691- 000BG27C01 của xe ô tô ra, giấu vào trong áo phía trước bụng. Sau đó T điều khiển xe mô tô bỏ đi về phía Cái Dăm, phường Bãi Cháy.

Vụ thứ mười hai: Sau khi thực hiện vụ thứ mười một, Nguyễn Hữu T tiếp tục điều khiển xe mô tô ra đường Quốc lộ 18A đi về phía cầu Bãi Cháy. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T phát hiện 01 chiếc xe ô tô con loại xe 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Lexus RX350, màu sơn trắng, BKS: 30F-123. của anh Nguyễn Văn T đang đỗ trước cửa nhà hàng Phú Lâm thuộc tổ 1, khu 10, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, đầu xe hướng về phía cầu Bãi Cháy, quan sát xung quanh thấy sơ hở không có ai trông coi. T điều khiển xe mô tô áp sát cánh cửa bên lái, dùng tay phải giật mặt gương chiếu hậu bên trái có ký hiệu mặt sau gương là LFLAT9108 của xe ô tô ra, giấu vào trong áo phía trước bụng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi về thành phố Hải Phòng để tiêu thụ.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long kiểm tra hành chính phát hiện Nguyễn Hữu T đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, BKS 14K3-0587 đi trên đường ngõ thuộc tổ 1, khu 2, phường Đại Yên, thành phố Hạ Long mang theo số gương vừa trộm cắp được về Hải phòng tiêu thụ. Vật chứng thu giữ: thu giữ trong người T và trên xe mô tô T đang sử dụng có 05 mặt gương chiếu hậu xe ô tô là vật chứng T trộm cắp được vào ngày 02/6/2019 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, BKS 14K3-0587.

Ngày 03/6/2019, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp quán sửa xe máy tại địa chỉ: số 3, T, phường H, quận Lê Chân, TP. Hải Phòng và nhà riêng của Phạm Văn H tại: số 4, tổ 24, phố V, phường V, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, thu giữ 19 mặt gương và 05 ốp lưng.

Cùng ngày, Đào Thắng M tự nguyện giao nộp 02 chiếc mặt gương chiếu hậu xe ô tô nhãn hiệu Volvo XC60 mà trước đó M đã mua của Phạm Văn H cho Cơ quan điều tra.

- Tại các Bản kết luận định giá tài sản số 88/KLĐG ngày 06/06/2019 và số 129/KLĐG ngày 18/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản TP. Hạ Long kết luận:

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại xe 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Mercedes C200, màu sơn trắng, đeo BKS: 14A-325.5 của chị Vũ Thị Thanh H tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 17.751.000 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Mercedes GLC250, màu trắng, BKS: 30E-238. của Công ty TNHH Thương mại tổng hợp và Dịch vụ vận tải T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 15.552.000 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Lexus RX450, màu sơn trắng, BKS: 30E-611. của chị Phan Thị N tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 6.320.000 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Mercedes Benz G63-AMG, màu sơn đen, BKS: 51H-000. của ông Đào Hồng T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 18.958.500 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu BMW X4, màu sơn đen, BKS: 14A-191. của ông Vũ Minh T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 4.980.300 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Mercedes E300, màu sơn trắng, BKS: 14A-256. của Công ty TNHH T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 17.512.000 đồng;

+ 02 chiếc mặt gương chiếu hậu của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Toyota Landcruiser, màu sơn trắng, BKS: 30F-635. của bà Hoàng Kim T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là 3.752.000 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên phải của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Lexus NX300, màu sơn đỏ, BKS: 30F-460.66 của anh Nguyễn Việt H tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 13.580.000 đồng;

+ 02 chiếc mặt gương chiếu hậu của xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Volvo XC60, màu màu trắng, BKS: 14A-351. của ông Đoàn Hữu V tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là 9.894.000 đồng;

+ 02 chiếc mặt gương chiếu hậu của xe ô tô con loại xe 05 chỗ, nhãn hiệu Lexus RX350, màu sơn nâu, BKS: 24A-042. của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là 14.490.000 đồng;

+ 02 chiếc mặt gương chiếu hậu của xe ô tô con loại xe 05 chỗ, nhãn hiệu Toyota Landcruiser, màu sơn đen, BKS: 30A-167. của Doanh nghiệp tư nhân T, tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là 3.752.000 đồng;

+ 01 chiếc mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô con loại xe 05 chỗ, nhãn hiệu Lexus RX300, màu trắng, BKS: 30F-123. của anh Nguyễn Văn T tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là: 10.560.000 đồng;

Tng giá trị tài sản bị xâm hại là: 137.140.600 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 88/KLĐG ngày 06/06/2019 của Hội đồng định giá tái sản thành phố Hạ Long, kết luận: 18 mặt gương chiếu hậu và 05 ốp nhựa thu tại nhà riêng và chỗ ở của Phạm Văn H có tổng giá trị 17.300.000 đồng Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Hữu T và bị cáo Phạm Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. Ngoài ra bị cáo T còn khai, T không có việc làm ổn định, lấy việc trộm cắp mặt gương chiếu hậu mang đi tiêu thụ làm nguồn sống chính. T khai qua quan sát hình ảnh số gương và ốp nhựa Công an thu giữ tại cửa hàng và nơi ở của H thì T chỉ nhận ra 02 mặt gương mà T đã lấy trộm bán cho H, số còn lại T không nhớ rõ vì thời gian đã lâu. Phạm Văn H khai khi mua H biết đó là tài sản do T phạm tội mà có, trong đó có một số mặt gương đã bán cho những người không quen biết đến cửa hàng mua, mỗi mặt gương H được lãi từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. H còn khai 18 mặt gương và 05 ốp nhưa thu tại của hàng và chỗ ở của H là H mua của T, nhưng khi mua H không biết T lấy ở đâu ra bán cho H.

Các bị hại và các đại diện bị hại vắng mặt tại phiên toà, nhưng tại cơ quan điều tra đều có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về nội dung vụ án. Về hình phạt: bị hại và đại diện bị hại đề nghị xét xử bị cáo T theo đúng quy định của pháp luật, về phần dân sự: không đề nghị bồi thường thiệt hại.

Người làm chứng anh Đào Thắng M, anh Nguyễn Thế Qh và anh Phạm Đức H tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về nội dung vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 269/CT-VKSHL ngày 24/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố: Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự và Phạm Văn H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo: Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản”, Phạm Văn H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Điểm b, c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Hữu T từ 42 đến 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 02/6/2019;

- Khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Văn H 18 đến 24 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo H cho UBND xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Buộc bị cáo T phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 4.050.000đồng, bị cáo H phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 1.200.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước. Bị cáo H đã tự nguyện nộp 3.000.000đồng vào Chi cục thi hành án dân sự TP. Hạ Long nên trả lại cho bị cáo H số tiền 1.800.000đồng.

Đề nghị tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước chiếc xe máy nhãn hiệu Sym Elegant, màu sơn đen-đỏ, không BKS.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã trình bày và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu T và bị cáo Phạm Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại và đại diện bị hại, lời khai của những người làm chứng, người liên quan và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2019 đến ngày 02/ 6/2019, tại địa bàn các phường Hồng Hà, Hồng Hải, Bạch Đằng, Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, Nguyễn Hữu T đã có hành vi thực hiện 12 vụ trộm cắp mặt gương chiếu hậu của xe ô tô các loại của: chị Vũ Thị Thanh H, ông Vũ Minh T, Công ty TNHH Thương mại tổng hợp và Dịch vụ vận tải T, chị Phan Thị N, ông Đào Hồng T, Công ty TNHH T, bà Hoàng Kim T, anh Nguyễn Việt H, ông Đoàn Hữu V, Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu T, Doanh nghiệp tư nhân T và anh Nguyễn Văn T chiếm đoạt 15 mặt gương với tổng giá trị 137.140.600 đồng. Sau đó, Nguyễn Hữu T đã mang về cửa hàng sửa chữa xe tại số 3, phố T, phường H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng bán cho Phạm Văn H, Phạm Văn H biết rõ số mặt gương do T trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua 09 mặt gương chiếu hậu với tổng giá trị là 89.341.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Hữu T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Hành vi của bị cáo Phạm Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự. Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu T trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Doanh nghiệp và của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo Phạm Văn H xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến công tác bảo vệ pháp luật và phòng chống tội. Bị cáo T không có nghề nghiệp đã liên tục phạm tội, bị cáo lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Bị cáo H biết rõ tài sản mà bị cáo T bán cho mình là do phạm tội mà có, nhưng bị cáo vẫn cố tình mua để bán lại kiếm lời, hành vi đó đã tiếp tay, thúc đẩy cho hoạt động tội phạm. Do đó cần tuyên mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mỗi bị cáo, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về tội danh, điều khoản truy tố, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt đề nghị áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về nhân thân: Bị cáo T là người có nhân thân xấu, bị cáo H là người có nhân thân tốt.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo H đã tự nguyện nộp tiền khắc phục hậu quả và có mẹ đẻ là người có công với Nhà nước, nên bị cáo H được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo T đã bị kết án, chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội nên bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Trong vụ án, bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội độc lập với bị cáo H nên mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự riêng về tội danh của mình.

Khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Bị cáo T có nhân thân xấu, tổng tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn, phạm tội hai lần trở lên và có tính chất chuyên nghiệp, do đó dù có xem xét giảm nhẹ hình phạt đến đâu thì việc cách ly bị cáo T khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết.

Bị cáo H có nhân thân tốt, đã từng là quân nhân tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế; Chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú. Do đó không cần thiết phải bắt bị cáo H đi chấp hành hình phạt tù cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích.

Ngày 06/02/2018, tại bản án số 18/2018/HSST, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/10/2019, tại bản án số 29/2019/HSST, Tòa án nhân dân quận Kiến An, TP. Hải Phòng đã xử phạt bị cáo T 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng của bản án số 18/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, buộc T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 24 tháng tù.

Do bản án số 29/2019/HSST ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, TP. Hải Phòng đã tổng hợp với hình phạt của bản án số 18/2018/HSST và chưa có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt của bản án ngày hôm nay với bản án số 29/2019/HSST ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Kiến An.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T là người không có công ăn việc làm, không có tài sản và thu nhập, bị cáo H công ăn việc làm không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với: 01 mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô Mercedes C200; 02 mặt gương chiếu hậu của xe ô tô Lexus RX350; 02 mặt gương chiếu hậu của xe ô tô Toyota Landcruiser; 01 mặt gương chiếu hậu của xe ô tô Lexus RX350 và 02 mặt gương chiếu hậu của xe ô tô Volvo XC60, Cơ quan CSĐT Công an TP. Hạ Long đã trả lại cho bị hại, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- Đối với vật chứng thu giữ tại nhà riêng và cửa hàng của Phạm Văn H gồm: 19 gương chiếu hậu (trong đó có 01 mặt gương chiếu hậu bên trái của xe ô tô Mercedes C200 đã trả lại cho chị Huyền nên còn 18 gương chiếu hậu) và 05 ốp nhựa, hiện nay chưa xác định được bị hại, Cơ quan điều tra tách ra làm rõ xử lý sau; Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, BKS: 14K3-0587 mà bị cáo T sử dụng đi trộm cắp tài sản, qua xác minh xác định chiếc xe trên có giấy tờ mang tên anh Tạ Quang TH, trú tại Tổ 4, khu Chạp Khê, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Anh TH khai đã bán cho một người không quen biết vào năm 2005. Hiện chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe trên nên Cơ quan điều tra tách ra làm rõ xử lý sau. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết đến số mặt gương, ốp nhựa và chiếc xe mô tô trên.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sym Elegant, màu sơn đen-đỏ, không BKS, số khung: RLGSC10EH8H000493, số máy: VMSAAA-H000493. T khai mua của một người không quen biết tại ngã tư Ắc Quy, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, T đã bán cho anh Đỗ Mạnh Tiến. Anh Tiến khai mua lại chiếc xe trên để bán sắt vụn với giá 400.000 đồng. Ngày 02/6/2019, anh Tiến tự nguyện giao nộp chiếc xe trên cho Cơ quan điều tra. Qua điều tra xác minh chiếc xe này không có thông tin trên hệ thống dữ liệu của phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Quảng Ninh. Xét thấy đây là phương tiện phạm tội cần tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Những bị hại và đại diện bị hại không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường thiệt hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ không yêu cầu T phải trả lại tiền anh đã bỏ ra mua chiếc xe máy của T, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Nội dung khác:

Quá trình điều tra xác định Nguyễn Hữu T đã bán 09 chiếc mặt gương xe ô tô cho Phạm Văn H thu được số tiền là 4.050.000đồng, số tiền này T đã ăn tiêu hết. Xét thấy đây là tiền do phạm tội mà có, cần buộc T phải nộp lại để sung ngân sách nhà nước.

Đi với Phạm Văn H, quá trình điều tra không xác định được H đã bán những mặt gương mua của T cho những ai và thu lợi bất chính được bao nhiêu tiền. Nhưng tại phiên toà bị cáo khai đã bán số gương mua của T thu lợi được khoảng hơn 1.200.000 đồng. Do vậy cần buộc bị cáo H phải nộp lại số tiền 1.200.000đồng sung ngân sách Nhà nước.

Đi với 18 mặt gương chiếu hậu và 05 ốp nhựa thu tại nhà riêng và chỗ ở của Phạm Văn H có tổng giá trị 17.300.000 đồng. Quá trình điều tra không xác định được đó có phải là tài sản do T phạm tội bán cho H hay không nên không có đủ căn cứ để buộc T và H phải chịu trách nhiệm hình sự về số mặt gương và ốp nhựa này.

Đi với Đào Thắng M có hành vi mua lại 02 chiếc gương xe Vovol của Phạm Văn H, nhưng Mỹ không biết đó là tài sản do phạm tội mà có và cũng chưa trả tiền cho H, 02 chiếc gương hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại, nên không có căn cứ để xử lý.

Ngoài ra bị cáo T còn khai sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Viva, màu sơn xanh, không BKS làm phương tiên phạm tội. T khai mượn của anh Khoa nhà ở phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và đã trả cho anh Khoa. Qua điều tra xác minh không có con người tại địa chỉ như đã nêu trên, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[10] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điểm b, c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hữu T;

- Khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khon 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Văn H.

Tuy ên bố :

- Bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

- Bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt :

- Bị cáo Nguyễn Hữu T 48 (Bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 02/6/2019.

- Bị cáo Phạm Văn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho UBND xã B, huyện T, thành phố Hải phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

Trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Về xử lý vật chứng : Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sym Elegant, màu sơn đen-đỏ, không BKS, số khung: RLGSC10EH8H000493, số máy: VMSAAA-H000493.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 32/BB-THA ngày 28/10/2019 giữa Công an thành phố Hạ Long và Chi cục thi hành án thành phố Hạ Long).

- Buộc bị cáo Nguyễn Hữu T phải nộp lại số tiền 4.050.000đ (Bốn triệu không trăm năm mười nghìn đồng) sung ngân sách nhà nước.

- Buộc bị cáo Phạm Văn H phải nộp lại số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng) sung ngân sách Nhà nước. Bị cáo H đã nộp số tiền 3.000.000đồng theo biên lai thu tiền số 0004735 ngày 11/11/2019 tại Chi cục Thi hành án thành phố Hạ Long nên trả lại bị cáo H số tiền 1.800.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Hữu T và bị cáo Phạm Văn H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo T và H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

447
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 329/2019/HSST ngày 11/11/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:329/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về