Bản án 329/2019/HS-PT ngày 30/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 329/2019/HS-PT NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 222/TLPT-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo: Huỳnh B về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1328/2019/QĐXXPT-HS ngày 01/10/2019.

- Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên : HUỲNH B; sinh ngày 08/8/1958 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: huyện K, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Giáo viên – là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng từ ngày 29/3/2018; con ông: Huỳnh H và bà Huỳnh B (đều đã chết); bị cáo có vợ là Phan Thị Thu T và 03 con: con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/3/2018; Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Võ Ngọc C – Văn phòng luật sư T, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

* Người bị hại:

1. Ông Trịnh Đức L; trú tại: Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk;

2. Bà H; trú tại: Buôn K, xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk;

3. Ông Đào Ngọc S; trú tại: tỉnh Quảng Bình;

4. Bà Nguyễn Thị B; trú tại: Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk LắK;

5. Ông Trương Xuân H; trú tại: xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk;

6. Chị Nông Thị T (có mặt) và anh Nguyễn Văn B2 (vắng mặt); trú tại: huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

7. Ông Lương Văn T; trú tại: Buôn K, xã P, huyện B, tỉnh Đắk Lắk;

8. Ông Phạm Văn C ; trú tại: huyện K, tỉnh Đắk Lắk;

9. Ông Nguyễn Đình Đ, bà Nguyễn Thị M và chị Nguyễn Thị Song N; trú tại: huyện C, tỉnh Đắk Lắk;

10. Ông Nguyễn Văn M; trú tại: xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

11. Bà Chu Thị L; trú tại: Thôn X, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

12. Ông La Văn Q; trú tại: Thôn T, xã ET, huyện N, tỉnh Đắk Lắk.

13. Bà Võ Thị L1; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

14. Ông Nguyễn Công H1; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Đều vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Đức L2; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bà Đào Thị L3; trú tại: huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

3. Ông Lê Văn K; trú tại: tỉnh Đắk Nông.

4. Ông Vũ Văn N; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

5. Ông Nguyễn Minh L4; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

6. Bà Trần Thị T1; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

7. Ông Dương Quốc H2; trú tại: huyện A, tỉnh Đắk Lắk.

8. Bà Lê Thị H3; trú tại: huyện A, tỉnh Đắk Lắk.

9. Chị Nguyễn Thị B; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

10. Ông Hồ Thanh H4; trú tại: Khối 13, phường ET, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. 

11. Anh Văn Thanh H5; trú tại: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

12. Ông Cao Văn B1, bà Bùi Thị H6; trú tại: Thôn 11, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

13. Bà Phan Thị Thu T2; trú tại: huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

14. Ông Trần Hữu T3; trú tại: huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

15. Bà Trịnh Thị Thu T4; trú tại: Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

16. Bà KN; trú tại: Buôn K, xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

17. Ông Chu Lý T5; trú tại: Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

18. Bà Trương Thị D; trú tại: Thôn Đ 3, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

19. Ông Lương Văn T6; trú tại: Buôn K, xã P, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

20. Chị Phạm Thị Đ; trú tại: Thôn 11, xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

21. Chị Nguyễn Thị T7; trú tại: Thôn Đ 3, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

22. Chị Nguyễn Thị L5; trú tại: huyện A, tỉnh Đắk Lắk.

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2017, Huỳnh B là Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở N, xã V, huyện K. Theo nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, khi trường có nhu cầu hợp đồng giáo viên để giảng dạy các tiết thiếu tại trường, Hiệu trưởng nhà trường có ý kiến tiếp nhận đối với từng cá nhân, hồ sơ xin việc cụ thể rồi nộp về phòng nội vụ huyện. Phòng nội vụ phối hợp với phòng Giáo dục và đào tạo huyện trình Ủy ban nhân dân huyện ký quyết định hợp đồng lao đồng đồng thời giao cho trường ký hợp đồng lao động đối với từng cá nhân. Việc ban hành quyết định tuyển dụng, quyết định hợp đồng giáo viên, nhân viên trường học thuộc chức năng, thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện. Mặc dù không có khả năng xin việc làm và không có chức năng quyết định thi tuyển, xét tuyển viên chức nhưng Huỳnh B đã đưa ra thông tin gian dối là bản thân có thể xin được vào làm việc tại trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Đắk Lắk và xin biên chế vào ngành giáo viên để nhận tiền của 14 trường hợp, chiếm đoạt tổng số tiền 1.596.000.000 đồng. Để tạo niềm tin cho những người xin việc, Huỳnh B tự ý ký tiếp nhận vào dạy tại trường THCS N do Huỳnh B làm Hiệu trưởng. Với thủ đoạn như trên, Huỳnh B đã chiếm đoạt tiền của những người cụ thể như sau:

1. Chiếm đoạt của ông Trịnh Đức L số tiền 125.000.000 đồng:

Ông Trịnh Đức L có con gái là Trịnh Thị Thu T4. Năm 2012, khi T4 đang học tại trường Đại học Quy Nhơn thì ông L đã nhờ Huỳnh B xin cho T4 sau khi ra trường sẽ được vào biên chế nhà nước ngành giáo viên. Năm 2014, Huỳnh B tiếp nhận T4 vào dạy tại trường THCS N. Từ năm 2012 đến năm 2015, ông L đưa cho Huỳnh B tổng số tiền 125.000.000 đồng để xin việc, cụ thể:

Ngày 01/10/2012 đưa 40.000.000 đồng, ngày 02/6/2015 đưa 25.000.000 đồng có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”. Những lần còn lại ông L đưa tiền nhưng không viết giấy tờ, sau đó ông L ghi lại sau tờ giấy nhận tiền ngày 01/10/2012 thể hiện như sau: Ngày 01/7/2013 (tức ngày 24/5/2013 âm lịch) đưa số tiền 40.000.000 đồng, ngày 29/10/2013 âm lịch đưa số tiền 20.00.000 đồng. Ngoài ra chị T4 còn đưa cho Huỳnh B 02 lần với tổng số tiền 15.000.000 đồng để bồi dưỡng.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 11/2018, T4 bị chấm dứt việc giảng dạy tại trường nên ông L yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Đối với số tiền 15.000.000 đồng là do ông L tự nguyện bồi dưỡng nên không yêu cầu. Như vậy, số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Trịnh Đức L là 125.000.000 đồng.

2. Chiếm đoạt của bà H số tiền 65.000.000 đồng.

Bà H có con gái là KN, sinh năm 1988 tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Đắk Lắk, ngành sinh hóa. Sau khi tìm hiểu, bà H gặp Huỳnh B để nhờ xin việc thì được Huỳnh B hứa xin cho KN vào biên chế nhà nước ngành giáo viên và 03 lần tiền với tổng số 65.000.000 đồng. Cụ thể:

Lần 1: Ngày 29/7/2013 bà H và KN đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 40.000.000 đồng, có viết giấy nhận tiền thể hiện “Giấy mượn tiền”. Sau đó để tạo niềm tin, vào tháng 10/2013 Huỳnh B tiếp nhận KN vào dạy hợp đồng tại trường THCS N.

Lần 2: Vào khoảng tháng 11/2013 Huỳnh B nói với bà H là KN đã có quyết định hợp đồng và yêu cầu đưa thêm 10.000.000 dồng thì được bà H và KN đến nhà đưa cho Huỳnh B số tiền 10.000.000 đồng, khi đưa không có ai chứng kiến và không viết giấy tờ thể hiện.

Lần 3: Vào khoảng tháng 10/2014, Huỳnh B nói với bà H là KN có quyết định dài hạn và nói đưa thêm số tiền 15.000.000 đồng. Sau đó bà H và KN đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 15.000.000 đồng, khi đưa không có ai chứng kiến và không viết giấy tờ thể hiện.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 6/2015, KN bị cắt hợp đồng dạy tại trường và yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Như vậy, số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của bà H là 65.000.000 đồng. Số tiền này Huỳnh B khai đưa cho ông Trần Đức L2 tại thời điểm đó là trưởng phòng Nội vụ huyện K 45.000.000 đồng và đưa cho bà Lê Thị H ở thành phố B (không xác định được lai lịch) 10.000.000 đồng.

3. Chiếm đoạt của ông Đào Ngọc S số tiền 30.000.000 đồng Ông Đào Ngọc S có con gái là Đào Thị Cẩm V sinh năm 1990 tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm. Thông qua em gái là Đào Thị L3 giới thiệu gặp Huỳnh B để xin việc cho V. Khi gặp, Huỳnh B đưa ra thông tin xin việc cho V vào biên chế nhà nước ngành giáo viên với số tiền 75.000.000 đồng, đưa trước số tiền 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, ông S đã đưa cho Huỳnh B số tiền 95.000.000 đồng nhiều hơn thỏa thuận ban đầu, cụ thể như sau:

Lần 1: Ngày 12/9/2013 ông S đưa cho Huỳnh B nhận số tiền 50.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”. Sau đó, Huỳnh B tiếp nhận Đào Thị Cẩm V vào dạy tại trường THCS N.

Lần 2: Đầu năm 2015, Huỳnh B gọi điện thoại nói với ông S tình hình căng lắm nên đưa thêm số tiền 45.000.000 đồng. Vì vậy, ngày 10/3/2015 ông S đưa cho Huỳnh B số tiền 45.000.000 đòng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền” trong đó ghi chung tổng tiền 02 lần đưa là 95.000.000 đồng.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 4/2015, Đào Thị Cẩm V nghỉ dạy tại trường và yêu càu Huỳnh B trả lại tiền. Ngày 10/10/2015 Huỳnh B đã trả cho ông S tổng số tiền 65.000.000 đồng. Như vậy, số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Đào Ngọc S là 30.000.000 đồng.

Đối với số tiền trên, Huỳnh B khai đưa cho ông Trần Đức L2 50.000.000 đồng.

4. Chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị B số tiền 130.000.000 đồng Bà Nguyễn Thị B có con là Chu Lý T5 tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên khoa sư phạm Toán. Khoảng năm 2013, Chu Lý T5, sinh năm 1988 tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên, khoa Sư phạm toán. Khoảng năm 2013, Chu Lý T5 đến trường Trung học cơ sở N xin việc và được Huỳnh B tiếp nhận vào dạy môn Toán. Khoảng tháng 10/2013, Huỳnh B nói với Chu Lý T5 muốn xin vào biên chế nhà nước thì đưa cho Huỳnh B số tiền 130.000.000 đồng, trước mắt đưa số tiền 100.000.000 đồng. Huỳnh B đã nhận 02 lần với tổng số tiền 130.000.000 đồng, cụ thể:

Lần 1: Ngày 21/11/2014, bà Nguyễn Thị B và Chu Lý T5 đến nhà anh Huỳnh Trọng N, là con trai Huỳnh B, địa chỉ thành phố B để đưa cho Huỳnh B số tiền 100.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Lần 2: Khoảng cuối tháng 11/2014, Huỳnh B nói với Chu Lý T5 có quyết định dài hạn trên huyện rồi, đưa 30.000.000 đồng để nhận quyết định. Vì vậy, ngày 15/12/2015 Chu Lý T5 đưa cho Huỳnh B 30.000.000 đồng tại phòng làm việc của Huỳnh B, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 6/2017, Chu Lý T5 không được tiếp tục ký hợp đồng giảng dạy tại trường nên yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền.

Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị B là 130.000.000 đồng. Số tiền này Huỳnh B khai đưa cho ông Trần Đức L2 số tiền 30.000.000 đồng và đưa cho ông Võ Trường L6 thời điểm này là Phó chủ tịch UBND huyện K số tiền 70.000.000 đồng. Ngày 17/10/2014 ông L đã chết.

5. Chiếm đoạt của ông Trương Xuân H số tiền 125.000.000 đồng.

Ông Trương Xuân H có con gái là Trương Thị D, sinh năm 1985 tốt nghiệp trường Đại học Bình Dương, khoa Ngữ văn. Thông qua người quen giới thiệu, ông Hương gặp Huỳnh B để xin việc cho D thì được Huỳnh B đưa ra thông tin xin cho D vào biên chế nhà nước ngành giáo viên và nhận tiền xin việc 04 lần với số tiền 125.000.000 đồng cụ thể:

Lần 1: Ngày 22/01/2014 ông Trương Xuân H cùng với Trương Thị D đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 40.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền” và hứa khoảng 01 tuần sẽ đi làm.

- Lần 2: Sau thời gian 01 tuần, Trương Thị D chưa được đi làm nên ông Trương Xuân H gọi điện thoại hỏi, nên Huỳnh B tiếp nhận Trương Thị D vào dạy môn Văn tại trường Trung học cơ sở N. Đến tháng 3/2014 Huỳnh B nói đưa số tiền 50.000.000 đồng để lo cho Trương Thị D vào biên chế. Ngày 12/3/2014 ông Trương Xuân H và Trương Thị D đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 50.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Lần 3: Vào khoảng đầu tháng 5/2014, Huỳnh B gọi điện thoại nói cho ông Trương Xuân H nói sắp có quyết định rồi, đưa thêm số tiền 20.000.000 đồng. Ngày 19/5/2014 Trương Thị D đến phòng làm việc và đưa cho Huỳnh B số tiền 20.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện có nhận số tiền trên của Trương Thị D.

Lần 4: Khoảng tháng 7/2016 do không được vào biên chế nhà nước, nên ông Trương Xuân H hỏi thì Huỳnh B nói đưa thêm 15.000.000 đồng để lấy quyết định. Ngày 13/7/2016 ông Trương Xuân H và Trương Thị D đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 15.000.000 đồng, khi nhận tiền Huỳnh B có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 2/2018, Trương Thị D bị trường cắt hợp đồng giảng dạy tại trường nên yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Trương Xuân H là 125.000.000 đồng. Số tiền này Huỳnh B khai đưa cho ông Trần Đức L2 30.000.000 đồng và đưa cho ông Võ Trường L6 70.000.000 đồng.

6. Chiếm đoạt của chị Nông Thị T số tiền 61.000.000 đồng.

Chị Nông Thị T tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm Hà Tây và có mối quan hệ quen biết xã hội với chị Trương Thị D. Do biết chị T chưa có việc làm, nên chị D đứng ra giới thiệu chị T gặp Huỳnh B để xin việc và được Huỳnh B đưa ra thông tin xin cho chị T vào biên chế nhà nước ngành giáo viên với số tiền 100.000.000 đồng, đưa trước 50.000.000 đồng, khi nào có quyết định biên chế đưa số tiền còn lại. Sau đó Huỳnh B đã nhận 04 lần với tổng số tiền 80.000.000 đồng cụ thể:

Lần 1: Ngày 13/6/2014 chị T cùng chồng tên Nguyễn Văn B2 đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 20.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Lần 2: Đầu tháng 01/2015, Huỳnh B nói anh Nguyễn Văn B2 đưa thêm số tiền 20.000.000 đồng để lấy quyết định đi dạy. Ngày 20/01/2015 chị T đi đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 20.000.000 đồng. Khi nhận tiền Huỳnh B viết bên dưới nội dung nhận tiền ngày 13/6/2014 với tổng số tiền 02 lần nhận là 40.000.000 đồng.

Lần 3: Đầu tháng 3/2015 Huỳnh B nói đưa thêm 10.000.000 đồng theo thỏa thuận để lấy quyết định đi dạy. Ngày 17/3/2015 chị T đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 10.000.000 đồng. Khi nhận tiền Huỳnh B viết tiếp vào tờ giấy nhận tiền ngày 13/6/2014 và ngày 20/01/2015.

Lần 4: Do thời gian đã lâu mà chưa xin được việc nên anh Nguyễn Văn B2 gọi điện hỏi thì Huỳnh B nói đưa thêm 30.000.000 đồng để xin trường khác. Ngày 14/9/2016 chị T đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 30.000.000 đồng và viết phía dưới nội dung giấy nhận tiền ngày 17/3/2015. Do không xin được việc cho chị T vào biên chế nhà nước ngành giáo viên, nên chị T đòi lại tiền. Khoảng tháng 12/2017 Huỳnh B đã trả lại số tiền 17.000.000 đồng và đầu tháng 4/2018 bà Phan Thị Thu T2 (là vợ Huỳnh B) trả lại số tiền 2.000.000 đồng.

Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của chị Nông Thị T là 61.000.000 đồng. Số tiền chiếm đoạt được Huỳnh B khai đưa cho ông Võ Trường L6 số tiền 60.000.000 đồng để xin việc.

7. Chiếm đoạt của ông Lương Văn T số tiền 20.000.000 đồng.

Ông Lương Văn T có con tên Lương Văn T6, sinh năm 1991, tốt nghiệp Khoa thể chất thuộc trường Cao đẳng sư phạm Nha T4. Thông qua anh Hà Văn V giới thiệu để gặp Huỳnh B xin cho Lương Văn T6 vào biên chế nhà nước, dạy môn thể dục (chưa nói cụ thể trường nào). Khi gặp Huỳnh B đưa ra thông tin trường đang thiếu giáo viên môn thể dục, nên có thể xin cho Lương Văn T6 vào dạy tại trường với số tiền 140.000.000 đồng, đưa trước 70.000.000 đồng, khi nào xin được việc sẽ đưa số tiền còn lại theo thỏa thuận.

Ngày 10/11/2014 ông Lương Văn T đã đưa cho Huỳnh B số tiền 70.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền” và hẹn 01 năm sẽ xin được việc. Khi đến hẹn, Huỳnh B không xin được việc nên ông Lương Văn T đòi lại tiền. Trong năm 2016, Huỳnh B đã trả cho ông Tú 02 lần với tổng số tiền 50.000.000 đồng.

Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Lương Văn T là 20.000.000 đồng.

8. Chiếm đoạt của ông Phạm Văn C số tiền 160.000.000 đồng.

Ông Phạm Văn C có con gái tên Phạm Thị Đ, sinh năm 1991 tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm tỉnh Đắk Lắk, ngành Sư phạm Vật lý - Kỹ thuật công nghiệp. Qua tìm hiểu ông C đến gặp Huỳnh B để xin việc cho chị Đào thì được Huỳnh B đưa ra thông tin xin cho Phạm Thị Đ vào biên chế nhà nước ngành giáo viên với số tiền 160.000.000đồng, không nói thời gian xin việc được. Ngày 12/10/2015 ông Phạm Văn C đến nhà và đưa cho bị can Huỳnh B số tiền 160.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy nhận tiền”. Sau khi nhận tiền, đầu năm 2016 Huỳnh B ký hợp đồng tiếp nhận Phạm Thị Đ vào dạy môn Vật lý tại trường Trung học cơ sở N.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 6/2017, Phạm Thị Đ đã nghỉ dạy tại trường và yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Phạm Văn C là 160.000.000 đồng.

9. Chiếm đoạt của ông Nguyễn Đình Đ số tiền 20.000.000 đồng.

Ông Nguyễn Đình Đ và bà Nguyễn Thị M có con gái tên Nguyễn Thị Song N, sinh năm 1993 tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên, ngành Giáo dục chính trị. Bà Nguyễn Thị M đã nhờ bạn của Nguyễn Thị Song N là anh Lê Văn K xin cho chị N vào làm việc tại huyện ủy A, tỉnh Đắk Lắk. Nhưng sau hơn 01 năm không xin được việc nên Lê Văn K giới thiệu bà Nguyễn Thị M gặp ông Nguyễn Văn Anh T để xin việc cho chị N vào biên chế nhà nước dạy học tại trường Trung học cơ sở N với số tiền 50.000.000 đồng. Ngày 10/01/2017 vợ chồng bà Nguyễn Thị M đưa cho ông Nguyễn Văn Anh T số tiền 50.000.000 đồng, khi nhận tiền ông Nguyễn Văn Anh T có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền mặt”. Khoảng tháng 02/2017 ông Nguyễn Văn Anh T nói chị N sắp vào trường Trung học cơ sở N dạy nên đưa cho Huỳnh B số tiền 20.000.000 đồng. Ngày 26/02/2017 chị N đưa cho Huỳnh B số tiền 20.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”, trong đó thể hiện mượn tiền của ông Nguyễn Đình Đ. Chị N dạy tại Trường N do lương thấp và không xin được vào biên chế nên đến tháng 6/2016, N nghỉ dạy tại trường nên yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền.

Đối với số tiền 50.000.000 đồng bà Nguyễn Thị M đưa cho ông Thành. Do ông Thành đã chết nên không có căn cứ xác định việc đưa nhận tiền xin việc giữa bà Minh và ông Thành.

Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Nguyễn Đình Đ là 20.000.000 đồng.

10. Chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn M số tiền 110.000.000 đồng.

Ông Nguyễn Văn M có con là Nguyễn Thị T7, sinh năm 1994 tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm tỉnh Phú Yên, ngành Thể dục - Sinh. Thông qua chị Trương Thị D, cùng xóm giới thiệu để gặp Huỳnh B xin việc cho Nguyễn Thị T7. Khi gặp, Huỳnh B đưa ra thông tin xin cho Nguyễn Thị T7 vào biên chế nhà nước ngành giáo viên với số tiền 140.000.000 đồng, đưa trước 70.000.000 đồng, khi nào có quyết định vào biên chế đưa số tiền còn lại. Sau đó Huỳnh B nhận 03 lần tiền xin việc với tổng số tiền 120.000.000 đồng cụ thể như sau:

Lần 1: Ngày 22/02/2016 ông Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T7 đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 70.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”. Sau khi nhận tiền, Huỳnh B tiếp nhận Nguyễn Thị T7 vào dạy môn Thể dục tại trường Trung học cơ sở N.

Lần 2: Khoảng tháng 3/2016, Huỳnh B gọi điện thoại nói ông Nguyễn Văn M đưa số tiền 30.000.000 đồng để làm hồ sơ thi công chức. Ngày 30/3/2016 ông Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T7 đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 30.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện nhận tiền.

Lần 3: Khoảng tháng 6/2017, Huỳnh B nói có 03 suất nghỉ hưu, được tuyển thẳng, không cần thi nên phải đưa số tiền 25.000.000 đồng. Ngày 06/6/2017 Huỳnh B đến nhà ông Nguyễn Văn M, nhưng ông Nguyễn Văn M chỉ có 20.000.000 đồng đưa cho Huỳnh B, khi nhận tiền bị can Huỳnh B có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 6/2017, chị Nguyễn Thị T7 nghỉ dạy tại trường và yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Tháng 10/2017, Huỳnh B trả lại cho ông Minh số tiền 10.000.000đồng nhưng không có giấy tờ thể hiện.

Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn M là 110.000.000 đồng.

11. Chiếm đoạt của bà Chu Thị L, sinh năm 1973, trú tại thôn 19/5, xã Y, huyện P, số tiền 300.000.000 đồng.

Năm 2016, Huỳnh Bê biết cháu Tạ Thị Phương A, sinh năm 1994, là con gái bà Chu Thị L tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên, ngành Sư phạm Vật lý nên Huỳnh B nói với bà L xin việc cho cháu Tạ Thị Phương A vào làm việc tại trường Cao đẳng sư phạm tỉnh Đắk Lắk. Vì tin tưởng Huỳnh B nên vào ngày 10/9/2016 bà L đã đưa cho Huỳnh B số tiền 300.000.000 đồng. Khi nhận tiền, Huỳnh B viết “Giấy nhận tiền để xin việc” thể hiện nội dung “…xin cho cháu Phương A vào làm tại trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk, số tiền này tôi đưa cho ông N phó phòng tổ chức của trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk để lo việc”. Sau khi đưa bà Chu Thị L đến trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk mua 01 bộ hồ sơ dự tuyển viên chức để Tạ Thị Phương A tham dự kỳ thi tuyển viên chức do Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk tổ chức. Ngày 08/10/2016 Tạ Thị Phương A thi tuyển viên chức, vị trí dự tuyển là chuyên viên Phòng Thanh tra và đảm bảo chất lượng giáo dục trường Cao đẳng sư phạm tỉnh Đắk Lắk. Kết quả: Tạ Thị Phương A không trúng tuyển nên bà Chu Thị L yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Do không xin được việc và không trả tiền nên ngày 20/7/2017 bà L viết đơn tố cáo Huỳnh B về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Huỳnh B khai: Đối với số tiền 300.000.000 đồng nhận từ bà L thì Huỳnh B đưa cho ông Vũ Văn N 250.000.000 đồng để nhờ xin việc, và giữ lại 50.000.000 đồng sử dụng cá nhân. Khi đưa tiền cho ông Vũ Văn N, Huỳnh B có viết giấy tờ thể hiện “Giấy vay tiền” ngày 13/9/2016, hẹn đến tháng 3/2017 trả, có nghĩa đến tháng 3/2017 xin được việc. Ngày 24/4/2017 ông Vũ Văn N trả cho Huỳnh B số tiền 250.000.000 đồng, viết giấy tờ thể hiện “Giấy trả nợ tiền”. Sau đó trong tháng 4/2017 Huỳnh B đã trả cho bà Chu Thị L số tiền 100.000.000 đồng, khi trả tiền không viết giấy tờ.

Ông Vũ Văn N khai: Năm 2015 có cho bị can Huỳnh B vay số tiền 120.000.000 đồng, tuy nhiên giấy vay tiền do vợ của ông Vũ Văn N giữ. Năm 2016 ông Vũ Văn N vay số tiền 250.000.000 đồng của Huỳnh B, có viết giấy vay tiền ngày 13/9/2016. Đến ngày 24/4/2017 trả lại số tiền 250.000.000 đồng cho Huỳnh B. Ông Vũ Văn N có nhận lời xin việc cho cháu Tạ Thị Phương A, nhưng khẳng định không nhận tiền xin việc của Huỳnh B. Trong thời gian Huỳnh B nhờ xin việc, thỉnh thoảng bà Chu Thị L có đến nhà ông Vũ Văn N hỏi tình hình xin việc và hỏi thăm nhau xã giao.

Bà Chu Thị L khai: Ngày 10/9/2016 đưa cho Huỳnh B số tiền 300.000.000 đồng xin việc cho con gái Tạ Thị Phương A. Khi nhận tiền, Huỳnh B có viết giấy tờ thể hiện đưa tiền cho ông Vũ Văn N để xin việc, thông qua ông Huỳnh B nên bà L biết ông N vì vậy bà L có đến nhà ông N hỏi tình hình xin việc, còn việc Huỳnh B có đưa tiền cho ông Vũ Văn N và đưa số tiền bao nhiêu thì bà L không biết. Bà L xác nhận Huỳnh B có trả số tiền 100.000.000 đồng, nhưng đây là số tiền Huỳnh B vay mượn cá nhân, không phải trả tiền xin việc. Tuy nhiên bà L không cung cấp được giấy tờ thể hiện việc vay mượn.

Như vậy, với tài liệu chứng cứ thu thập được đủ căn cứ xác định Huỳnh B đã có hành vi chiếm đoạt của bà Chu Thị L số tiền 300.000.000 đồng. Đối với việc Huỳnh B trả cho bà Chu Thị L số tiền 100.000.000 đồng, không có căn cứ xác định là trả tiền xin việc hay trả tiền vay mượn cá nhân.

Quá trình xin việc, bà Chu Thị L thỉnh thoảng có đến nhà ông Vũ Văn N, trong khi nói chuyện bà Chu Thị L có dùng điện thoại di động để ghi âm lại các cuộc nói chuyện. Bà Chu Thị L đã cung cấp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk 01(một) USB có 03 file ghi âm. Kết quả xác định, 03 file ghi âm thể hiện ông Vũ Văn N nhận lời xin việc cho Tạ Thị Phương A thông qua Huỳnh B, không thể hiện ông Vũ Văn N nhận tiền xin việc. (BL 729-761).

12. Chiếm đoạt của ông La Văn Q số tiền 140.000.000 đồng.

Ông La Văn Q có con tên La Văn K, sinh năm 1990 tốt nghiệp trường sư phạm có nhu cầu xin việc làm. Thông qua Công ty trách nhiệm hữu hạn M do anh Nguyễn Minh L4, sinh năm 1991, là giám đốc giới thiệu để gặp Huỳnh B xin việc sau khi gặp Huỳnh B hứa hẹn xin cho La Văn K dạy môn Tin học tại trường Trung học cơ sở N với số tiền 140.000.000 đồng và đã nhận tiền xin việc 03 lần với số tiền 140.000.000 đồng như sau:

Lần 1: Ngày 17/9/2016 vợ chồng ông La Văn Q cùng với anh Nguyễn Minh L4 đến nhà Huỳnh B, sau khi giới thiệu hai bên với nhau thì anh Nguyễn Minh L4 về trước. Tại đây, vợ chồng ông La Văn Q đưa cho Huỳnh B 50.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”. Sau khi nhận tiền Huỳnh B tiếp nhận La Văn K vào dạy học tại trường Trung học cơ sở N.

Lần 2: Trong thời gian La Văn K dạy học tại trường thì Huỳnh B gọi điện thoại cho ông La Văn Q nói đưa tiếp số tiền 60.000.000 đồng. Ngày 20/11/2016, vợ chồng ông La Văn Q đến nhà và đưa cho Huỳnh B số tiền 60.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”.

Lần 3: Huỳnh B nói sắp có đợt thi công chức và nói ông La Văn Q đưa số tiền 30.000.000 đồng để lo công chức. Ngày 05/12/2017 vợ chồng ông La Văn Q đến nhà đưa cho Huỳnh B số tiền 30.000.000 đồng, có viết giấy tờ thể hiện “Giấy mượn tiền”. Do không xin được vào biên chế nên đến tháng 2/2018, anh La Văn K nghỉ dạy tại trường và yêu cầu Huỳnh B trả lại tiền. Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông La Văn Q là 140.000.000 đồng. Số tiền này Huỳnh B khai đưa cho ông Trần Hữu T3 (thời điểm này là Trưởng phòng nội vụ huyện P) 40.000.000 đồng để nhờ xin việc.

13. Thông qua bà Võ Thị L1, Huỳnh B đã chiếm đoạt số tiền 140.000.000 đồng của 02 trường hợp xin việc sau:

13.1. Khoảng cuối năm 2015 bà Võ Thị L1 đưa ra thông tin với bà Nguyễn Thị T là tại huyện P có các suất chỉ tiêu giáo viên vào biên chế nhà nước. Bà T quen biết với ông Dương Quốc H2 nên nói lại thông tin trên. Bà Lê Thị H3 có con gái tên Nguyễn Thị L5, sinh năm 1993 tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên, khoa sư phạm Sinh. Vì vậy gia đình bà Lê Thị H3 nhờ ông Dương Quốc H2 xin việc cho Nguyễn Thị L5. Sau khi bà H3 hỏi xin việc, ông H2 trao đổi với Bà T để bà L1 hỏi Huỳnh B. Khi bà L3 đề cập xin việc cho chị L1 thì Huỳnh B hứa hẹn xin giúp cho chị L1 vào biên chế nhà nước ngành giáo viên nhưng không nói cụ thể số tiền bao nhiêu. Tuy nhiên, sau đó bà Võ Thị L1 đưa ra thông tin xin việc cho chị L1 vào biên chế nhà nước ngành giáo viên với số tiền 190.000.000 đồng, đưa trước 90.000.000 đồng, khi nào có quyết định sẽ đưa số tiền còn lại. Bà Lê Thị H3 đã đưa tổng số tiền xin việc là 190.000.000 đồng, sau khi đưa tiền xin việc Nguyễn Thị L5 được tiếp nhận vào dạy môn Sinh tại trường Trung học cơ sở N, cụ thể việc đưa tiền thể hiện:

Ngày 15/12/2015 bà Lê Thị H3 cùng chồng tên Nguyễn Văn T đưa cho ông Dương Quốc H2 số tiền 100.000.000 đồng, khi nhận tiền hai bên có viết giấy tờ thể hiện “Giấy biên nhận”. Trong đó, bà Lê Thị H3 thỏa thuận cho ông Dương Quốc H2 số tiền 10.000.000 đồng chí phí bồi dưỡng đi lại, còn lại số tiền 90.000.000 đồng tiền xin việc. Sau khi nhận tiền của gia đình bà Lê Thị H3 thì ông Dương Quốc H2 đưa hết số tiền 90.000.000 đồng cho bà Trần Thị T1 rồi Bà T đưa cho bà Võ Thị L1 số tiền 90.000.000 đồng. Khi nhận tiền bà Võ Thị L1 đưa cho bị can Huỳnh B 80.000.000 đồng, giữ lại số tiền 10.000.000 đồng.

Khoảng đầu tháng 01/2016 bà Võ Thị L1 nói đưa số tiền 100.000.000 đồng còn lại, nhưng bà Trần Thị T1 nói gia đình bà Lê Thị H3 yêu cầu có văn bản tiếp nhận mới đưa tiền. Vì vậy, Huỳnh B làm Đơn xin tiếp nhận Nguyễn Thị L5 và ký xác nhận đưa cho bà Võ Thị L1. Khi có đơn tiếp nhận, bà Lê Thị H3 tiếp tục đưa số tiền 100.000.000 đồng cho ông Dương Quốc H2, ông H2 đưa lại cho bà Trần Thị T1 để Bà T đưa lại cho bà Võ Thị L1. Tuy nhiên bà Võ Thị L1 không đưa cho Huỳnh B mà giữ lại số tiền này.

Do không xin được vào biên chế nên sau khi đi dạy được hai tháng thì chị L1 nghỉ dạy.

13.2. Năm 2011 chị Nguyễn Thị B tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên, ngành Lý luận chính trị. Do có quen biết với và Võ Thị L1 nên khoảng tháng 9/2016 chị Nguyễn Thị B đưa số tiền 60.000.000 đồng cho bà L3 để bà L3 đưa cho Huỳnh B để nhờ xin vào biên chế ngành giáo viên. Sau khi nhận tiền, Huỳnh B tiếp nhận chị B vào dạy học tại trường Trung học cơ sở N. Tuy nhiên, chị B không được vào biên chế nhà nước và đòi lại số tiền 60.000.000 đồng. Mặc dù Huỳnh B chưa trả số tiền 60.000.000 đồng nhưng vào khoảng tháng 7/2017 bà L3 đã trả cho chị B 60.000.000 đồng.

Như vậy từ năm 2015 đến năm 2016, bà Võ Thị L1 nhận số tiền 60.000.000 đồng xin việc cho chị B và nhận số tiền 190.000.000 đồng để xin việc cho chị L1. Tổng số tiền nhận xin việc cho 02 trường hợp là 250.000.000 đồng. Bà Võ Thị L1 đã đưa cho Huỳnh B số tiền 60.000.000 đồng xin việc cho chị B và số tiền 80.000.000 đồng xin việc cho chị L1. Tổng số tiền đưa cho bị can Huỳnh B là 140.000.000 đồng. Bà L3 giữ lại số tiền 110.000.000 đồng tiền xin việc của chị L1. Tuy nhiên, Huỳnh B không xin được vào biên chế nhà nước cho chị B và chị L1 nên bà Võ Thị L1 bị chị B và chị L1 yêu cầu trả tiền nên bà L3 đã lấy số tiền 110.000.000 đồng xin việc của chị L1 mà bà L3 đang giữ lại để trả cho chị B 60.000.000 đồng và trả cho Bà T trả lại cho ông H2, ông H2 trả lại cho bà Lê Thị H3 số tiền 50.000.000 đồng. Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của bà Võ Thị L1 là 140.000.000 đồng.

14. Thông qua ông Nguyễn Công H1, Huỳnh B chiếm đoạt số tiền 170.000.000 đồng của 03 trường hợp xin việc sau:

Ông Nguyễn Công H1 có quen biết với ông Y. Thông qua Y thì ông Nguyễn Công H1 gặp gỡ Huỳnh B để nhờ xin việc và đưa cho Huỳnh B tổng số tiền 190.000.000 đồng để xin việc cho 03 trường hợp sau:

14.1. Năm 2015 ông Hồ Thanh H4 nhờ ông Nguyễn Công H1 xin việc cho cháu của ông Hồ Thanh H4 tên là Nguyễn Xuân L. Từ khoảng tháng 4/2015 đến khoảng tháng 6/2015 ông Hồ Thanh H4 đã đưa cho ông Nguyễn Công H1 02 lần tổng số tiền 70.000.000 đồng để ông Nguyễn Công H1 đưa cho Huỳnh B. Sau khi nhận tiền, Huỳnh B tiếp nhận anh Nguyễn Xuân L vào dạy học tại trường Trung học cơ sở N. Tuy nhiên do nhà trường không bố trí được giờ dạy, nên Nguyễn Xuân L nghỉ dạy và ông Hồ Thanh H4 yêu cầu trả lại tiền. Cuối năm 2016, Huỳnh B đã trả cho ông Hồ Thanh H4 số tiền 20.000.000 đồng, chưa trả số tiền 50.000.000 đồng.

14.2. Năm 2015 anh Văn Thanh H5 nhờ ông Nguyễn Công H1 xin việc cho vợ của anh Văn Thanh H5 tên Nguyễn Thị Hà M, tốt nghiệp trường Đại học Tây Nguyên, khoa ngoại ngữ. Sau khi được ông Nguyễn Công H1 nhờ Huỳnh B hứa hẹn xin cho chị Nguyễn Thị Hà M làm giáo viên môn Anh văn dạy tại trường thuộc thành phố B với số tiền 150.000.000 đồng, đưa trước số tiền 50.000.000 đồng. Khoảng tháng 5/2015 anh Văn Thanh H5 đưa số tiền 50.000.000 đồng cho ông Nguyễn Công H1 để ông H1 đưa cho Huỳnh B. Tuy nhiên, đến nay Huỳnh B không xin được việc cho Nguyễn Thị Hà M và cũng không trả lại tiền.

14.3. Khoảng tháng 02/2016 ông Cao Văn B1 có con gái tên Cao Thị L, sinh năm 1996 học trường Trung cấp mầm non. Thông qua mối quan hệ xã hội ông Cao Văn B1 gặp ông Nguyễn Công H1 để xin việc cho con gái thì được ông Nguyễn Công H1 hứa hẹn xin cho Cao Thị L dạy trường mầm non thuộc huyện C vào biên chế nhà nước với số tiền 140.000.000 đồng. Ông Cao Văn B1 đưa 03 lần với tổng số tiền 70.000.000 đồng cho ông Nguyễn Công H1 để xin việc như sau:

Lần 1: Ngày 26/4/2016 ông Cao Văn B1 đưa số tiền 20.000.000 đồng cho ông Nguyễn Công H1, khi nhận tiền ông Nguyễn Công H1 có viết giấy tờ xác nhận.

Lần 2: Ngày 27/4/2016 ông Cao Văn B1 đưa số tiền 20.000.000 đồng cho ông Nguyễn Công H1, khi nhận tiền ông Nguyễn Công H1 viết xác nhận phía dưới nội dung nhận tiền ngày 26/4/2016, ghi tổng số tiền nhận 02 lần là 40.000.000 đồng.

Lần 3: Ngày 05/8/2016 bà Bùi Thị H6 (là vợ của ông Cao Văn B1) cùng Cao Thị L đưa số tiền 30.000.000 đồng cho ông Nguyễn Công H1, khi nhận tiền ông Nguyễn Công H1 viết giấy tờ thể hiện “Giấy nhận tiền”.

Sau khi nhân 70.000.000 đồng từ ông Cao Văn B1 thì ông Nguyễn Công H1 đã đưa lại cho Huỳnh B số tiền 70.000.000 đồng, Huỳnh B đưa cho ông Nguyễn Văn Anh T số tiền 30.000.000 đồng.

Từ năm 2015 đến năm 2016 thông qua ông Nguyễn Công H1, Huỳnh B đã nhận tổng số tiền 190.000.000 đồng để xin việc biên chế nhà nước cho 03 trường hợp. Tuy nhiên, Huỳnh B không xin được việc như hứa hẹn nên trả số tiền 20.000.000 đồng tiền xin việc cho Nguyễn Công H1 để ông H1 trả lại cho ông Hồ Thanh H4. Như vậy số tiền mà Huỳnh B đã chiếm đoạt của ông Nguyễn Công H1 là 170.000.000 đồng.

Ngoài ra có 03 trường hợp đưa tiền cho bà Ngô Thị L8, sinh năm 1968, trú tại tổ dân phố 7, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk để xin việc. Bà Ngô Thị L8 khai đưa tiền cho Huỳnh B nhưng Huỳnh B không thừa nhận đó là tiền xin việc.

Từ tháng 12/2014 đến năm 2015, bà Ngô Thị L8 mặc dù không có khả năng, quyết định xin việc nhưng đưa ra thông tin có thể xin được việc ngành giáo viên vào biên chế nhà nước để nhận tiền xin việc của 03 trường hợp như sau:

1. Trường hợp nhận tiền xin việc của ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1965, cư trú tại khối 7, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk: Từ ngày 31/12/2014 đến ngày 12/11/2015 bà Ngô Thị L8 nhận tổng số tiền 210.000.000 đồng của gia đình ông Nguyễn Văn V để xin việc cho Nguyễn Thị P (là con của ông Nguyễn Văn V).

2. Trường hợp nhận tiền xin việc của ông Hồ Đăng T, sinh năm 1958, trú tại huyện N, tỉnh Đắk Lắk: Từ tháng 8/2015 đến tháng 10/2015 bà Ngô Thị L8 nhận tổng số tiền 200.000.000 đồng của ông Hồ Đăng T để xin việc cho Hồ Thị Thanh T (là con của ông Hồ Đăng T).

3. Trường hợp nhận tiền xin việc của bà Đào Thị H, sinh năm 1959, cư trú huyện E, tỉnh Đắk Lắk: Ngày 02/12/2015 bà Ngô Thị L8 nhận số tiền 180.000.000 đồng để xin việc cho Đào Thị HX (là con gái bà Đào Thị H).

Như vậy bà Ngô Thị L8 đã nhận tiền xin việc của 03 trường hợp với tổng số tiền 590.000.000 đồng. Bà Ngô Thị L8 khai đưa cho bị can Huỳnh B số tiền 240.000.000 đồng để xin việc cho Nguyễn Thị P, Hồ Thị Thanh T và đưa 150.000.000 đồng để xin việc cho Đào Thị HX. Nhưng bà Ngô Thị L8 không cung cấp được tài liệu chứng minh việc đưa nhận tiền.

Huỳnh B khai: Đối với 03 trường hợp Nguyễn Thị P, Hồ Thị Thanh Tâm và Đào Thị Hương thì Huỳnh B không nhận tiền xin việc. Huỳnh B có nợ bà Ngô Thị L8 số tiền 150.000.000 đồng, là tiền vay mượn cá nhân, không phải tiền xin việc. Ngoài lời khai của bà Ngô Thị L8 và tài liệu của bà Ngô Thị L8 cung cấp nhưng có mâu thuẫn về thời gian đưa nhận tiền cho Huỳnh B thì không có tài liệu khác chứng minh nên không có cơ sở để xác định lời khai của bà Ngô Thị L8 trên là có căn cứ.

Như vậy, tổng số tiền mà Huỳnh B đã nhận xin của 14 Trường hợp là 1.740.000.000 đồng. Sau khi không xin được Huỳnh B đã trả lại 144.000.000đồng, Huỳnh B đã chiếm đoạt của 14 trường hợp với tổng số tiền 1.596.000.000đồng.

Ngoài ra quá trình điều tra, xác định từ năm 2015 - 2016 Huỳnh B đã đưa ra thông tin hứa hẹn xin cho 02 trường hợp vào biên chế nhà nước ngành giáo viên để nhận tổng số tiền 230.000.000 đồng, cụ thể:

1. Huỳnh B nhận của ông Bùi Đình H, sinh năm 1960, trú tại huyện P, tỉnh Đắk Lắk số tiền 110.000.000 đồng để xin việc cho con của ông Bùi Đình H tên Bùi An T, khi giao nhận tiền xin việc bị can Huỳnh B có viết giấy tờ thể hiện giấy mượn tiền. Tuy nhiên do không xin được cho Bùi An T vào biên chế nhà nước ngành giáo viên nên bị can Huỳnh B đã trả lại số tiền 70.000.000 đồng, chưa trả số tiền 40.000.000 đồng. Sau khi không đòi được số tiền còn lại ông Bùi Đình H đã làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện P. Ngày 29/9/2017 Tòa án nhân dân huyện P đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 74/QĐST- DS và đã có hiệu lực.

2. Huỳnh B nhận của bà Đoàn Thị L, sinh năm 1971, trú tại tỉnh Đắk Nông số tiền 120.000.000 đồng để xin việc cho con là Đinh Hồng L, khi giao nhận tiền xin việc Huỳnh B có viết giấy tờ thể hiện giấy mượn tiền. Tuy nhiên do không xin được cho Đinh Hồng L vào biên chế nhà nước ngành giáo viên nên Huỳnh B đã trả lại số tiền 35.000.000 đồng, chưa trả số tiền 85.000.000 đồng. Sau khi không đòi được số tiền còn lại bà Đoàn Thị L đã làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện P. Ngày 05/3/2018 Tòa án nhân dân huyện P đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 07/QĐST-DS và đã có hiệu lực.

Với các tài liệu, chứng cứ thu thập được, mặc dù không có khả năng quyết định vào biên chế nhà nước ngành giáo viên nhưng Huỳnh B đã đưa ra thông tin gian dối là bản thân có thể xin được vào biên chế nhà nước để chiếm đoạt tiền xin việc của ông Bùi Đình H và của bà Đoàn Thị L là có dấu hiệu của tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra có công văn số 17/PC01 ngày 26/11/2018 đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các Quyết định đã có hiệu lực nêu trên theo quy định. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk không đề cập xử lý cho đến khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ toàn bộ các vật chứng có liên quan để xử lý theo pháp luật.

Tại các kết luận giám định số 503/PC54 ngày 12/8/2017; số 726/PC54 ngày 25/8/2018; số 751/PC09 ngày 07/9/2018; số 972/PC09 ngày 11/11/2018; số 1001/PC09 ngày 19/11/2018; số 1026/PC09 ngày 22/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Giấy nhận tiền để xin và các giấy mượn tiền mang tên Huỳnh B so với chữ viết, chữ ký đứng tên Huỳnh B trong các tài liệu mẫu so sánh, là do cùng một người viết và ký ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[1]. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Huỳnh B 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 28/3/2018.

Ngoài ra, bản án còn tuyên quyết định về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng, án phí; quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 26/4/2019 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 07/5/2019 bà Chu Thị L kháng cáo đề nghị làm rõ hành vi đồng phạm của ông Võ Văn Năm trong vụ án. Ngày 02/7/2019, bà Chu Thị L có đơn rút kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Chu Thị L; đồng thời bác kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2017, Huỳnh B là Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở N, ở xã V, huyện K, biết rõ mình không có khả năng xin việc làm và không có chức năng quyết định việc thi tuyển, xét tuyển viên chức nhưng Huỳnh B đã đưa ra thông tin gian dối là có thể xin được vào làm việc tại trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk và xin biên chế vào ngành giáo viên để chiếm đoạt số tiền 1.596.000.000 đồng của 14 người.

Với hành vi và hậu quả nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã tuyên bố bị cáo Huỳnh B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bà Chu Thị L, nhận thấy: Ngày 07/5/2019 bà Chu Thị L kháng cáo yêu cầu làm rõ hành vi đồng phạm của ông Võ Văn Năm trong vụ án; ngày 02/7/2019, bà L có đơn rút kháng cáo. Do đó căn cứ khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Chu Thị L.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, nhận thấy: Hành vi của bị cáo Huỳnh B nêu trên là rất nguy hiểm cho xã hội, số tiền bị cáo chiếm đoạt gấp 3 lần mức khởi điểm của khung hình phạt bị truy tố, xét xử; theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo, án sơ thẩm đã xét bị cáo có nhiều thành tích trong công tác, thật thà khai báo và được một số người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nên đã áp dụng các điểm s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo 14 năm tù là phù hợp, không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gì mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ y án sơ thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Từ nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Chu Thị L.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh B; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Huỳnh B 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/3/2018.

2. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Huỳnh B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 329/2019/HS-PT ngày 30/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:329/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về