Bản án 328/2019/HN&GÐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 328/2019/HN&GÐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoằng Hóa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 nãm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2019/QĐST-HNGÐ ngày 18 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị Ph, Sinh năm 1997.

Ðịa chỉ: thôn L, xã Đ, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Lê Thế Nguyên, Sinh năm 1990.

Ðịa chỉ: thôn L, xã Đ, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa hôm nay có mặt chị Ph và anh Ng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/9/2019, bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 15/10/2019, lời trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn chị Lò Thị Ph thể hiện như sau:

Chị Lò Thị Ph và anh Lê Thế Ng tự nguyện tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ vào năm 2017. Sau khi cưới cuộc sống vợ chồng bình thường được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, luôn bất đồng quan điểm, hai bên gia đình đã hòa giải dàn xếp nhiều lần nhưng không đạt được kết quả, do đó vợ chồng sống ly thân mỗi người mỗi nơi, không ai quan tâm đến ai, cho đến thời điểm hiện nay thì tình cảm vợ chồng không còn nên chị Phượng đề nghị Tòa án gải quyết cho vợ chồng được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Thế V, sinh ngày 13/7/2018. Ly hôn nguyện vọng của chị Ph là được nuôi dưỡng cháu V và yêu cầu anh Ng đóng góp tiền nuôi con chung cùng chị mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Theo bản tự khai ngày 26/9/2019 và tại Biên bản hòa giải ngày 15/10/2019, lời trình bày tại phiên tòa của bị đơn anh Lê Thế Ng thể hiện như sau:

Anh Lê Thế Ng và chị Lò Thị Ph tự do tìm hiểu và tổ chức cưới, được UBND xã Đ cấp Đăng ký kết hôn vào năm 2017. Sau khi cưới vợ chồng sống hòa thuận không có mâu thuẫn xảy ra, được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do khúc mắc trong cuộc sống gia đình vợ chồng tính tình không hợp, luôn bất đồng quan điểm. Nay anh Ng xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Ph làm đơn xin ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn với chị Ph Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Thế V, sinh ngày 13/7/2018. Ly hôn nguyện vọng của anh Ng là được nuôi dưỡng cháu V và không yêu cầu chị Ph đóng góp tiền nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ti phiên tòa nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiền về phần cấp dưỡng nuôi con chung và các bên không thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Lò Thị Ph và anh Lê Thế Ng kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn, như vậy về hôn nhân giữa chị Ph và anh Ng là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm, bố mẹ hai bên đã hòa giải dàn xếp nhiều lần nhưng vẫn không cải thiện được nên chị Ph đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở và hiện nay chị Ph và anh Ng đã sống ly thân. Nay chị Ph làm đơn xin ly hôn, anh Ng cũng đồng ý vì xác định tình cảm vợ chồng không còn. Điều đó chứng tỏ tình cảm giữa chị Ph và anh Ng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã tiến hành hòa giải để mong anh chị đoàn tụ nhưng không được. Nay tại phiên tòa anh chị vẫn xin được thuận tình ly hôn.

Xét thấy: Việc chị Ph và anh Ng thuận tình ly hôn là hoàn toàn tự nguyện không trái với quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa Chị Lò Thị Ph và anh Lê Thế Ng là phù hợp pháp luật.

[2] Về con: Chị Lò Thị Ph và anh Lê Thế Ng đều thống nhất vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Thế V, sinh ngày 13/7/2018. Ly hôn chị Ph và anh Ng đều có nguyện vọng và mong muốn được nuôi con.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của anh chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Chị Ph và anh Ng đều có khả năng chăm sóc con tốt.

Hi đồng xét xử thấy rằng hiện nay cháu V mới được hơn 15 tháng tuổi, cháu còn quá nhỏ nên cần sự nuôi dưỡng chăm sóc của mẹ. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cháu V cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa chị Ph bổ sung yêu cầu khởi kiện về cấp dưỡng nuôi con chung. Cụ thể chị Ph yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng). Anh Lê Thế Ng chấp nhận yêu cầu của chị Ph về phần cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đ. Sự thỏa thuận của anh Ng và chị Ph là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên cần chấp nhận sự thỏa thuận của hai bên.

[3] Về tài sản: Hai bên không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Lò Thị Ph là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị Ph phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, khoản 4 Ðiều 147; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khon 1 Điều 51, Điều 55, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Ðim a khoản 1 Ðiều 24, điểm a khoản 5; điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Toà án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lò Thị Ph và anh Lê Thế Ng.

2. Về nuôi con chung:

Công nhận vợ chồng có một con chung là cháu Lê Thế V, sinh ngày 13/7/2018. Giao cháu Lê Thế V, sinh ngày 13/7/2018 cho chị Lò Thị Ph trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Ng có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Ng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ph mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi cháu V thành niên hoặc có sự thay đổi về mặt pháp lý khác.

3. Về tài sản và công nợ chung: Chị Ph và anh Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí:Chị Lò Thị Ph phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số: AA/2018/0005816 ngày 19/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa (Chị Ph đã thi hành xong). Anh Ng phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Ph, anh Ng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 328/2019/HN&GÐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:328/2019/HN&GÐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về