Bản án 327/2020/HNGĐ-ST ngày 11/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 327/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 11 tháng 5 năm 2020 tại phòng xử án - Trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1511/2019/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 168/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị T - Sinh năm: 1976 Địa chỉ: 33/1A, Tổ 1, Khu phố 2, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

2. Bị đơn: Ông Trần Văn H - Sinh năm: 1975 Địa chỉ: 33/1A, Tổ 1, Khu phố 2, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai, biên bản hoà giải, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày:

Bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 49/2000, quyển số 01 do UBND Phường 5, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/5/2000. Trong thời gian chung sống, vợ chồng ông bà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cách sống, tính tình không hợp, ông H thường ghen tuông vô cớ, vợ chồng thường xuyên cãi cọ, gây gổ, không có tiếng nói chung. Vợ chồng ông bà đã sống ly thân nhau khoảng 08 tháng nay. Hiện không ai quan tâm, chăm sóc cho ai. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ nên bà Phạm Thị T yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn H.

Về con chung: Có 04 con chung tên Trần Thị Thảo V, sinh ngày 29/01/2001 (đã trưởng thành), Trần Văn T, sinh ngày 18/10/2006, Trần Thị Thảo N, sinh ngày 21/9/2008 và Trần Văn P, sinh ngày 16/6/2011.

Bà Phạm Thị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Văn T, sinh ngày 18/10/2006 và Trần Văn P, sinh ngày 16/6/2011 đến tuổi trưởng thành và tự nguyện giao con chung tên Trần Thị Thảo N, sinh ngày 21/9/2008 cho ông Trần Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai, tại biên bản hoà giải, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Văn H trình bày:

Ông Trần Văn H xác nhận lời trình bày của bà Phạm Thị T về quá trình kết hôn, về con chung. Trong quá trình chung sống, vợ chồng cũng có mâu thuẫn do bất đồng qua điểm sống, cách sống. Trong lúc nóng giận đôi lúc ông H cũng có những hành vi, lời nói xúc phạm đến bà Tân. Ông Hóa có đánh bà Tân 03-04 lần do ông H ghen tuông và bà T có những lời lẽ không phù hợp, xúc phạm đến ông Hóa và gia đình ông Hóa. Hai vợ chồng ông bà đã sống ly thân khoảng 08 tháng nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nhưng vì thương con, không muốn con cái thiếu tình thương của cả cha và mẹ nên ông H không đồng ý ly hôn với bà Phạm Thị T.

Về con chung: Nếu bà T cương quyết ly hôn thì ông Trần Văn H yêu cầu được nuôi tất cả các con chung và không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn. Đây là tranh chấp về ly hôn. Bị đơn đang cư trú tại Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Toà án đã tống đạt và triệu tập hợp lệ bị đơn tham gia tố tụng tại phiên toà vào ngày 10/4/2020 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do vì vậy Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo Quyết định hoãn phiên tòa số 168/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2020. [3]. Về các yêu cầu của đương sự:

Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn. Như vậy, hôn nhân của bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H được thực hiện theo đúng các điều kiện và thủ tục kết hôn nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: quan hệ tình cảm vợ chồng giữa bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H thực sự mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, cùng nhau nuôi dạy con cái. Xét thấy, đời sống chung giữa vợ chồng bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị T là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại các Điều 19, 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Ông Trần Văn H yêu cầu được nuôi cả 03 con chung và không yêu cầu bà Phạm Thị T cấp dưỡng nuôi con. Bà Phạm Thị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Văn T và Trần Văn P đến tuổi trưởng thành và tự nguyện giao con chung tên Trần Thị Thảo N cho ông Trần Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Xét thấy, trẻ Trần Văn T và Trần Văn P có nguyện vọng được ở với mẹ, trẻ Trần Thị Thảo N có nguyện vọng được ở với ba. Nguyện vọng của các trẻ phù hợp với yêu cầu của bà T nên yêu cầu được nuôi con chung của bà Phạm Thị T là có cơ sở chấp nhận. Bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện của bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này theo quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà Phạm Thị T và ông Trần Văn H không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Phạm Thị T phải nộp, được cấn trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Phạm Thị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0107801 ngày 02 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận X. Bà Phạm Thị T đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

– Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 8, 9, 19, 51, 56, 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Trần Văn H.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Giấy chứng nhận kết hôn số 49/2000, quyển số 01 do UBND Phường 5, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/5/2000 không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Có 04 con chung tên Trần Thị Thảo V, sinh ngày 29/01/2001 (đã trưởng thành), Trần Văn T, sinh ngày 18/10/2006, Trần Thị Thảo N, sinh ngày 21/9/2008 và Trần Văn P, sinh ngày 16/6/2011.

Giao 02 con chung tên Trần Văn T, sinh ngày 18/10/2006 và Trần Văn P, sinh ngày 16/6/2011 cho bà Phạm Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Giao con chung tên Trần Thị Thảo N, sinh ngày 21/9/2008 cho ông Trần Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Không ai được ngăn cản quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi mọi mặt của người con khi cần thiết có thể xin thay đổi người nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Phạm Thị T phải nộp, được cấn trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn đồng) bà Phạm Thị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0107801 ngày 02 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận X. Bà Phạm Thị T đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 327/2020/HNGĐ-ST ngày 11/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:327/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về