Bản án 326/2017/HSPT ngày 11/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 326/2017/HSPT NGÀY 11/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 275/2017/HSPT ngày 19 tháng 10 năm 2017, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N đối với bản án hình sự sơ thẩm số 382/2017/HSST ngày 12/09/2017 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn N, sinh năm 1985.

Thường trú tại: Số 123, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: Không.

Con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Phạm Thị B, sinh năm 1953.

Vợ là: Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1987 và có 01 con chung sinh năm 2014.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 29/5/2017, Nguyễn Văn N thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Đến ngày 27/6/2017, bị Công an thành phố B xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại Quyết định số 791/QĐ-XPHC-ĐTTH.

Nhân thân:

- Ngày 22/11/2012, Nguyễn Văn N bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 (bốn) tháng 23 (hai mươi ba) ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 744/2012/HSST (đã xóa án tích);

- Ngày 24/12/2014, Nguyễn Văn N bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 760/2014/HSST (đã xóa án tích).

Bị bắt tạm giam ngày 13/6/2017. Có mặt.

Người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, Tòa án không triệu tập:

Người bị hại: Anh Nguyễn Tuấn M, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số 456, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NHẬN THẤY

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố B thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn N là người nghiện ma túy. Để có tiền mua ma túy sử dụng, vào khoảng 13 giờ ngày 13/6/2017, N điều khiển xe đạp điện nhãn hiệu Sport đi từ khu phố D, phường T, thành phố B đến trước nhà anh Nguyễn Tuấn M tại số 456, khu phố A, phường T, thành phố B, N nhìn thấy cửa nhà mở, bên trong không có người nên N dừng xe lại bên ngoài rồi đi bộ vào trong nhà. Tại đây, N phát hiện trên bàn uống nước ở phòng khách có để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu vàng trắng. N đã lén lấy chiếc điện thoại trên bỏ vào túi quần rồi đi ra ngoài điều khiển xe tẩu thoát thì bị anh M phát hiện tri hô, đuổi theo bắt giữ bị cáo N giao cho Công an phường T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và chuyển hồ sơ cho Công an thành phố B điều tra, xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S-32G, số Imei: 358758055650361 đã thu hồi trao trả cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tuấn M;

- 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Sport của bà Phạm Thị B (mẹ ruột N) cho N mượn sử dụng và bà B không biết N sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà B theo quy định pháp luật.

Về dân sự: Hiện anh Nguyễn Tuấn M đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 151/TCKH-HĐĐG ngày 16/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S - 32GB, Số Imei: 358758055650361 có giá trị định giá là 3.590.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 382/2017/HSST ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố B quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 của Điều 46 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N: 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2017.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 18/9/2017, bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có con nhỏ, mẹ già. Bị cáo có tiền sử bệnh tâm thần, đã điều trị 7 năm nay, hiện vẫn đang uống thuốc.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

Ngày 13/6/2017, bị cáo lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động của anh M. Hành vi của bị cáo đã vi phạm pháp luật. Án sơ thẩm xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, nay lại vi phạm nên cần xử lý nghiêm, cấp sơ thẩm cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 10 tháng tù là phù hợp và thỏa đáng. Tại tòa, bị cáo không cung cấp được tình tiết nào mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội như trên. Xét án sơ thẩm xử bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Về nhân thân bị cáo đã 02 lần trộm cắp tài sản và bị Tòa án xử phạt tù, sau khi về địa phương vào ngày 29/5/2017, bị cáo tiếp tục trộm cắp và bị Công an thành phố B xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa nộp phạt. Đến ngày 13/6/2017, bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội cho thấy bản chất bị cáo luôn vi phạm pháp luật. Vì vậy việc xử lý nghiêm bị cáo là cần thiết nhằm mục đích giáo dục và phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa, bị cáo kháng cáo trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, mẹ già yếu, nhưng bị cáo không phải là lao động chính trong gia đình; Bị cáo khai bị bệnh tâm thần và đang uống thuốc điều trị, nhưng không có giấy xác nhận của cơ quan chuyên môn và trong quá trình điều tra bị cáo khai báo là khỏe mạnh, minh mẫn đủ tỉnh táo để trả lời các câu hỏi của điều tra viên. Do đó không chấp nhận lời khai và kháng cáo xin giảm án của bị cáo.

Như đã nhận định, xét chấp nhận lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Căn cứ nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N. Y án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 138, các điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N: 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2017.

Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu M pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu M pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 326/2017/HSPT ngày 11/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:326/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về