Bản án 325/2019/HS-PT ngày 05/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 325/2019/HS-PT NGÀY 05/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 255/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Lê Thị Thu L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 129/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị Thu L; sinh năm 1973; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 199 Nam Hòa, tổ 3, khu phố 1, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà không số, hẻm 1 phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hoá: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn B (chết); và bà Phạm T; bị cáo không có chồng; có 03 con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 22/12/2016 đến ngày 29/12/2016 được tại ngoại; Bị bắt, tạm giam ngày 01/11/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 10 phút ngày 22/12/2016, tại số 624, đường K, khu phố 8, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra trật tự về ma túy Công an quận Thủ Đức phát hiện bắt quả tang Lê Thị Thu L đang bán ma túy cho Võ Duy Q. Thu giữ 01 khẩu trang y tế, bên trong có 01 decal màu vàng, trắng dán dính vào khẩu trang 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, 01 xe môtô; 02 điện thoại di động. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Số ma túy bị thu giữ do Lmua của 01 người đàn ông tên “Bo” không rõ lai lịch tại khu vực Cầu Đỏ, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.800.000 đồng/02 gói vào lúc 11 giờ ngày 22/12/2016. Trên đường đi về, Võ Duy Quang điện thoại cho Lhỏi mua 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng. L đồng ý và điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn với Quang tại trước cây xăng 27/7, trong lúc chưa kịp bán ma túy cho Quang thì L bị bắt như đã nêu trên.

Tiến hành khám xét tại chỗ ở của Lê Thị Thu L, thu giữ trong tủ 01 chiếc hộp bằng thiếc hiệu Royal, bên trong hộp thiếc có:

- 01 cân điện tử màu đỏ, trắng hiệu Marllouno;

- 01 miếng decal màu vàng, trắng, kích thước 20x40cm;

- 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, cắt nhọn 01 đầu, kích thước 12cm bên trong không chứa gì;

- 01 lưỡi dao rọc giấy bằng kim loại;

- 02 gói nylon dán 01 đầu bên trong không chứa gì.

Kết luận giám định số 204/KLGĐ-H ngày 03/01/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon hàn kín được dán trên 01 miếng decal màu vàng trắng (trong 01 khẩu trang y tế màu xanh) được niêm phong có chữ ký ghi tên Lê Thị Thu L và hình dấu Công an phường Linh Đông, quận Thủ Đức gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng l,9958g, loại Methamphetamine.

Lê Thị Thu L là người nghiện ma túy đá từ tháng 02/2015, L bắt đầu bán ma túy cho các người nghiện từ tháng 10/2016 cho đến ngày bị bắt nhằm mục đích có ma túy để sử dụng và kiếm tiền tiêu xài. Hàng ngày, L bán một gói ma túy với giá từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng, nếu người quen thì L giao ma túy tại nhà, nếu người lạ thì qua số điện thoại di động 01203706299 của Loan, hẹn địa điểm để mua bán ma túy.

Cơ quan điều tra xác định: L đã bán ma túy cho Q được 05 lần với giá 200.000 đồng/gói, lần thứ 06 chưa kịp bán thì bị bắt, phù hợp với lời khai và biên bản đối chất của Quang. Số tiền thu lợi do bán ma túy được 200.000 đồng/ngày, L đã tiêu xài hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra làm rõ những người nghiện đã mua ma túy của L gồm:

1. Trần Tuấn Dương khai: Là người nghiện, Dương đã mua ma túy của L 06 lần với giá từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng/1 gói. Khoảng 13 giờ ngày 22/12/2016, D đến nhà L tìm mua ma túy thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra mời về làm việc. Lời khai của Dương phù hợp với lời khai của L và biên bản đối chất.

2. Diệp Tuấn A khai: Là người nghiện, đã mua ma túy của L 04 lần với giá 300.000 đồng/1 gói tại nhà của L và gần nhà của Diệp Tuấn A. Ngày 22/12/2016, Tuấn Anh có liên lạc với L để mua ma túy thì biết tin L đã bị bắt, Diệp Tuấn Ađã nhận dạng và khai nhận Lê Thị Thu L chính là người đã bán ma túy cho Tuấn A.

3. Võ Duy Q (tên gọi khác Tiến) khai: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 22/12/2016 Quang điện thoại hỏi mua của L 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng, L đồng ý và hẹn địa điểm để mua bán ma túy tại trước cây xăng 27/7. Khoảng 12 giờ cùng ngày, L điều khiển xe đến điểm hẹn với Q tại trước cây xăng 27/7, trong lúc chưa kịp bán ma túy cho Quang thì bị bắt. L đã bán ma túy cho Quang được 05 lần với giá 200.000 đồng/gói, phù hợp với lời khai và biên bản đối chất của Q.

4. Nguyễn Văn Q khai: Khoảng 12 giờ ngày 22/12/2016 trong lúc đang sửa xe cạnh cây xăng 27/7 thì thấy công an thực hiện bắt giữ 01 người phụ nữ đeo khẩu trang y tế màu xanh, điều khiển xe Atilla màu trắng, người phụ nữ dùng tay phải ném khẩu trang xuống đất, khi công an kiểm tra bên trong khẩu trang có dán 01 miếng decal dán 01 gói nylon chứa tinh thể không màu gồm 01 gói lớn, 01 gói nhỏ.

Khi thực hiện khám xét nhà Lê Thị Thu L, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã mời Lê Văn Phương là anh ruột của Loan, Phương khai: Là người nghiện ma túy, Phương biết L bán ma túy nhưng không tham gia, kết quả kiểm tra Phương dương tính với ma túy.

Tại Bản án số 129/2019/HS-ST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ các điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999;

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu L: 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 01/11/2018 được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2016 đến ngày 29/12/2016.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Ngày 29/5/2019, bị cáo Lê Thị Thu L có đơn kháng cáo xin xem xét lại hành vi của bị cáo, bị cáo chỉ là người mua ma túy, không bán ma túy và xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị Thu L giữ nguyên nội dung kháng cáo cũng như lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không nhận việc mua bán ma túy; bị cáo không biết các đối tượng khai đã mua ma túy, việc bị cáo ký vào các biên bản là do cơ quan điều tra bảo bị cáo ký chứ bị cáo không biết chữ và cũng không được đọc nội dung bản khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt 08 năm tù đối với bị cáo L là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không nhận tội nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tham gia tranh luận.

Lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xem xét việc bị cáo chỉ có hành vi mua ma túy, không bán ma túy cho ai và đề nghị giảm nhẹ hình phạt vì có con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thu L trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Thị Thu L không nhận đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ là người đi mua ma túy của đối tượng tên Bo, bị cáo không biết các đối tượng Võ Duy Q, Trần Tuấn D, Diệp Tuấn A; bị cáo ký vào các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, biên bản đối chất, biên bản thu giữ là do Điều tra viên yêu cầu ký, bị cáo không đọc được nội dung vì bị cáo không biết chữ và cũng không được Điều tra viên đọc lại nội dung các biên bản cho bị cáo nghe. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử xét thấy: Biên bản ghi lời khai ban đầu của bị cáo Lê Thị Thu L vào lúc 14 giờ 15 phút ngày 22/12/2016 bị cáo L khai nhận “ngày 22/12/2016 bị cáo điều khiển xe mô tô đến cây xăng 27/7 địa chỉ 624 Kha Vạn Cân, khu phố 8, phường Linh Đông, quận Thủ Đức để bán ma túy cho đối tượng tên Tiến, vừa dừng xe gặp Tiến chưa kịp giao ma túy thì bị công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ 01 khẩu trang y tế màu trắng xanh bên trong có miếng decal màu vàng do tôi dùng tay phải thả xuống đất ngay chỗ tôi bị bắt...”. Như vậy, lời khai ban đầu của bị cáo khi bị bắt phù hợp với các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án tại: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản khám xét ngày 22/12/2016; Biên bản thu giữ vật chứng cùng ngày 22/12/2016; biên bản kiểm tra điện thoại cũng như lời khai người làm chứng, các đối tượng mua ma túy của bị cáo Võ Duy Quang, Diệp Tuấn Anh thể hiện: Khi bắt bị cáo có thu giữ điện thoại và trong điện thoại có cuộc gọi với Võ Duy Quang trước khi bị bắt; khi bị bắt bị cáo giật khẩu trang vứt xuống đất và bên trong có miếng decal màu vàng dính ma túy, phù hợp với miếng decal màu vàng, cân điện tử thu giữ khi khám xét nhà bị cáo; các đối tượng nghiện ma túy Trần Tuấn Dương, Diệp Tuấn Anh khai nhận mua ma túy của L nhiều lần, liên hệ với L qua số điện thoại 01203706299, số điện thoại này đúng với số điện thoại khi bắt thu giữ của bị cáo nên việc bị cáo cho rằng khi bắt bị cáo không thu giữ điện thoại, không thu giữ ma túy của bị cáo cũng như bị cáo không biết các đối tượng Trần Tuấn Dương, Diệp Tuấn Anh là không có cơ sở chấp nhận.

Ngoài ra vụ án còn được chứng minh tại các tài liệu tố tụng trong hồ sơ thể hiện do bị cáo đều tự ký tên, xác nhận đã đọc lại biên bản, đúng ý kiến; biên bản ghi lời khai ngày 27/12/2016 bị cáo ghi rõ bản thân biết đọc, biết viết không rõ chữ; giấy cam đoan ngày 21/3/2018 bị cáo tự viết nội dung. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ chữ ký, chữ viết trong các tài liệu nêu trên là của bị cáo nên không có căn cứ chấp nhận lời trình bày của bị cáo cho rằng mình không biết chữ.

Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 10/2016 đến ngày 22/12/2016 bị cáo Lê Thị Thu L đã nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng nghiện tại địa bàn quận Thủ Đức trong đó L đã bán cho Võ Duy Quang 05 lần với giá 200.000 đồng/gói; Trần Tuấn Dương 06 lần với giá 100.000 đồng đến 200.000 đồng/gói; Diệp Tuấn Anh 04-05 lần với giá từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng/gói. Lúc 12 giờ 10 phút tại trước cây xăng 27/7 địa chỉ 624 đường Kha Vạn Cân, phường Linh Đông, quận Thủ Đức khi Lê Thị Thu L đang chuẩn bị bán ma túy cho Võ Duy Quang thì bị bắt quả tang với ma túy sau giám định là 1.9958gam Methamphetamine.

[3] Bản án sơ thẩm số: 129/2019/HS-ST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo Lê Thị Thu L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người đúng tội. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến trị an xã hội, bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê Thị Thu L 08 (tám) năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi và hậu quả tội phạm mà bị cáo đã gây ra.

[4] Khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có thái độ khai báo không thành khẩn nên không được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang trực tiếp nuôi ba con nhỏ, con lớn bị bệnh tim. Xét hành vi của bị cáo đã gây ra, xét nhân thân và thái độ khai báo cùng hoàn cảnh gia đình của bị cáo cũng không thể giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu L: 08 (tám) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 01/11/2018 được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2016 đến ngày 29/12/2016.

Bị cáo Lê Thị Thu L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 325/2019/HS-PT ngày 05/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:325/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về