TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 324/2018/HS-ST NGÀY 25/12/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 12 năm 2018, tại Tru sơ Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 333/2018/TLST-HS ngày 12/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 392/2018/QĐXXST-HS ngày 14/12/2018 đối với các bị cáo:
1. Trần Trung A, sinh ngày 13/7/1994; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: , tỉnh Hà Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần A S, sinh năm 1972 và bà Trần Thị Nh, sinh năm 1971; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000613 lập ngày 10/9/2018 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân bị cáo A có một bản án số 96/2010/HSST ngày 15/12/2010, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 17 tháng 24 ngày về tội Cướp giật tài sản, đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội, có mặt.
2. Khúc văn B, sinh ngày 09/5/2001; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở:, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Khúc Văn H, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1965. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000614 lập ngày 10/9/2018 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà nội và lý lịch cá nhân bị cáo B không có tiền án, tiền sự. Bị tạm giữ từ ngày 08/9/2018 đến ngày 17/9/2018, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Khúc văn B: Ông Khúc Văn H (là bố đẻ), sinh năm 1964, trú tại tổ 16, phường Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Khúc văn B: Ông Trương Công Đỉnh - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Ông Khúc Văn H, sinh năm 1964, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 08/9/2018, có một thanh niên gọi điện thoại cho Trần Trung A hỏi mua 1.500.000 đồng ma túy cần sa, A đồng ý, hẹn gặp giao hàng ở khu vực Mỹ Đình, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Khoảng 9h cùng ngày, A gọi điện thoại cho Khúc văn B đến quán cà phê ở X, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội để mang ma túy cần sa đi giao cho khách, A đưa cho B 01 bọc giấy bên trong có 03 túi cần sa bảo B mang đến khu vực Mỹ Đình giao cho khách, lấy 1.550.000 đồng về cho A, trong đó 50.000 đồng là tiền công của B. Sau khi nhận ma túy, B điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 29H1-xxx.xx đi đến khu vực cổng ký túc xá Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội gặp một thanh niên (hiện chưa xác định được), người này đưa cho B 150.000 đồng để mua ma túy. Khi B cầm tiền chưa kịp đưa ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra thu giữ của B 03 túi nilon bên trong chứa thảo mộc khô nghi là ma túy; 150.000 đồng; 01 xe máy Honda Wave, BKS 29H1-xxx.xx màu đen, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 5 màu đen, số thuê bao 08yyyyyyyy. Người thanh niên mua ma túy bỏ chạy thoát.
Cùng ngày 08/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với Trần Trung A để điều tra làm rõ. Vật chứng thu giữ của Trần Trung A: 06 túi nilon màu trắng bên trong chứa thảo mộc khô (cành lá khô) nghi là ma túy. 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6.
Tại Kết luận giám định số 7154//KLGĐ-PC09 ngày 17/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Thảo mộc khô bên trong 03 túi nilon thu giữ của Khúc văn B đều là cần sa, tổng khối lượng 35,064 gam. Thảo mộc khô bên trong 06 túi nilon thu giữ của Trần Trung A đều là cần sa, tổng khối lượng 21,152 gam.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Trung A và Khúc văn B khai nhận tội.
Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Trần Trung A khai mua của một người thanh niên tên Huy không rõ họ tên, địa chỉ mục đích để bán nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xử lý.
Về nguồn gốc chiếc xe máy Honda Wave, BKS 29H1-xxx.xx màu đen, đăng ký chủ sở hữu là Khúc văn B. Ông Khúc Văn H là bố đẻ của B khai: Ông mua xe máy trên cho con trai sử dụng (việc Khúc văn B đăng ký chủ sở hữu là để thuận tiện cho việc đi học), ông H không biết việc B sử dụng xe máy trên đi bán ma túy.
Bản cáo trạng số 12/QĐ-VKS ngày 10/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố các bị cáo Trần Trung A, Khúc văn B về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, các bị cáo A và B khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo B đồng thời cũng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án ông Khúc Văn H có ý kiến đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho B và xin lại chiếc xe máy Honda Wave, BKS 29H1-xxx.xx vì chiếc xe là do ông H bỏ tiền ra mua để cho B có phương tiện đi học.
Người bào chữa cho bị cáo B tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét B phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, trong thời gian học tập B đã nhiều lần được Liên đoàn Thể dục Việt Nam tặng huy chương Bạc để áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho B hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như bản Cáo trạng số 12/QĐ-VKS ngày 10/12/2018 và đề nghị Hội đồng xét xử: Xử phạt bị cáo Trần Trung A từ 30 đến 36 tháng tháng tù, xử phạt bị cáo Khúc văn B từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong tang vật mép dán có chữ ký của Trần Trung A và giám định viên Nguyễn Hồng Quân, 01 phong bì niêm phong tang vật mép dán có chữ ký của Khúc văn B, người giám hộ Khúc Văn H và giám định viên Nguyễn Hồng Quân; Tịch thu sung quỹ Nhà Nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note và số tiền 150.000 đồng; Trả cho ông Khúc Văn H một xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 29H1-xxx.xx, SK: 402939; SM: 0378092.
Lời nói sau cùng các bị cáo A, B đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa các bị cáo A và B khai phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, sơ đồ hiện trường, sơ đồ bắt giữ, phù hợp với Bản kết luận giám định số 7154//KLGĐ-PC09 ngày 17/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội và phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.
[3] Những chứng cứ trên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 08/9/2018, tại khu vực cổng ký túc xá Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Khúc văn B có hành vi bán trái phép 03 gói ma túy cần sa có khối lượng 35,064 gam cho đối tượng không rõ lai lịch, đã nhận 150.000 đồng, chưa kịp giao ma túy thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Số ma túy cần sa thu giữ của B là của Trần Trung A giao cho B vào hồi 09 giờ tại quán cà phê số X, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội để B đi bán cho khách. Ngoài ra Trần Trung A còn có hành vi tàng trữ 21,152 gam cần sa mục đích để bán, tổng khối lượng ma túy cần sa A phải chịu trách nhiệm hình sự là 56,213 gam. Hành vi của các bị cáo Trần Trung A, Khúc văn B đã phạm vào tội “mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà Nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Các bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn mua ma túy về bán cho các con nghiện kiếm lời bất chấp pháp luật nên đối với các bị cáo phải xử lý nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội. Trong vụ án này, bị cáo A là người có ma túy bán, liên hệ giao dịch với khách mua về số lượng, giá cả nên A giữ vai trò chính. B là người trực tiếp mang ma túy giao cho khách, thu tiền cho A nên giữ vai trò đồng phạm sau bị cáo A.
[5] Khi lượng hình phạt: Đối với bị cáo A xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình để cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo A xúi dục bị cáo B là người dưới 18 tuổi phạm tội nên phải chịu một tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo B nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, sau khi bị bắt đã thành khẩn khai nhận tội và khai ra bị cáo A giúp Cơ quan điều tra phát hiện, giải quyết vụ án, bị cáo B cũng có thành tích xuất sắc trong học tập, nhiều lần được liên đoàn thể dục Việt Nam tặng Huy chương để cho bị cáo B hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, t, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cũng xét bị cáo B thực hiện hành vi phạm tội khi được 17 tuổi 3 tháng 29 ngày nên được áp dụng các Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo B.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn phạt tiền các bị cáo.
[7] Vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm gồm: 01 phong bì niêm phong tang vật mép dán có chữ ký của Trần Trung A, CBĐT Tạ Duy Nghiêm và giám định viên Nguyễn Hồng Quân, 01 phong bì niêm phong tang vật mép dán có chữ ký của Khúc văn B, người giám hộ Khúc Văn H, CBĐT Tạ Duy Nghiêm và giám định viên Nguyễn Hồng Quân, đây là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note các bị cáo dùng để liên lạc khi bán ma túy, số tiền 150.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước. Đối với một xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 29H1-xxx.xx, SK: 402939; SM: 0378092 xét đây là tài sản của ông Khúc Văn H, ông H mua xe máy cho B sử dụng đi học, không biết B đi mua ma túy nên cần trả cho ông H theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo B, người bào chữa cho bị cáo B, người có quyền lợi và nghĩa vuk liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 47; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với cả hai bị cáo Trần Trung A, Khúc văn B. Điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự riêng đối với bị cáo Trần Trung A. Điểm s, t, v khoản 1Điều 51; Điều 54; Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự riêng đối với bị cáo Khúc văn B; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với cả hai bị cáo Trần Trung A, Khúc văn B:
Tuyên bố các bị cáo Trần Trung A, Khúc văn B phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Trần Trung A 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/09/2018.
Xử phạt Khúc văn B 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 08/9/2018 đến ngày 17/9/2018).
Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong tang vật mép dán có chữ ký của Trần Trung A và giám định viên Nguyễn Hồng Quân; một phong bì niêm phong tang vật mép dán có chữ ký của Khúc văn B, người giám hộ Khúc Văn H và giám định viên Nguyễn Hồng Quân. Tịch thu sung quỹ nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6; một điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note và số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng). Trả cho ông Khúc Văn H, (sinh năm 1964, hộ khẩu thường trú và nơi ở xóm 2, phường Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội) một xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 29H1- xxx.xx, SK: 402939; SM: 0378092. Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 42 ngày 11/12/2018 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949 ngày 11/12/2018 tại Kho bạc nhà nước quận Nam Từ Liêm.
Án phí: Các bị cáo Trần Trung A, Khúc văn B (người đại diện hợp pháp ông Khúc Văn H nộp thay) mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo Khúc văn B, người bào chữa cho bị cáo Khúc văn B, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 324/2018/HS-ST ngày 25/12/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 324/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về