Bản án 322/2020/HNGĐ-ST ngày 11/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 322/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Trong ngày 11 tháng 12 năm 2020. Tòa án nhân dân huyện Thới Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2020/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019, Về việc: “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 412/2020/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Ngô Thị H, sinh năm 1979. ( Có mặt ) Địa chỉ: ấp TH, xã Trường T huyện TL, thành phố C.

Bị đơn: Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1978. ( Có mặt ) Địa chỉ: ấp TH, xã Trường T huyện TL, thành phố C.

Con chung của bà Ngô Thị H và ông Phạm Văn Đ cần triệu tập: Phạm Minh K, sinh ngày 21/11/2007.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Phía nguyên đơn bà Ngô Thị H yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Văn Đ.

Bà Ngô Thị H trình bày: Bà và ông Đ kết hôn năm 2000, có đăng ký kết hôn trễ hạn tại Uỷ ban nhân dân xã Trường Thắng, huyện Thới Lai vào ngày 29/5/2003. Sau khi thành hôn về chung sống tại ấp Trường Hòa, xã Trường Thắng, huyện Thới Lai. Đến tháng 4 năm 2020 thì bà và ông Đ ly thân nhau cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc ly thân là do ông Đ thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện chửi đánh vợ con nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, chung sống không còn hạnh phúc. Qúa trình chung sống thì bà và ông Đ có 02 con chung tên Phạm Thị H, sinh ngày 10/10/2001 (đã trưởng thành) và Phạm Đặng Minh K, sinh ngày 21/11/2007; Cháu K đang sống chung với bà và ông Đ.

Nay bà xác định không thể hàn gắn, đoàn tụ được với ông Đ nên xin ly hôn với ông Phạm Văn Đ.

Về tài sản chung: Bà và ông Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà và ông Đ không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về con chung: Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Đặng Minh K. Trước đây bà có yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa bà xác định không còn yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con. Bà xác định có đủ điều kiện để nuôi dạy con tốt.

Ông Phạm Văn Đ ( bị đơn ) trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà H về thời điểm kết hôn, đăng ký kết hôn, quá trình chung sống, con chung, người đang trực tiếp nuôi con, thời điểm ly thân, nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc ly thân là do ông có uống rượu về cự cãi với bà H nhưng không chửi mắng và đánh đập vợ con như bà H trình bày.

Nay xác định còn yêu thương bà H nên không đồng ý ly hôn với bà H mà yêu cầu được đoàn tụ về nuôi dạy con chung. Trường hợp ly hôn ông yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là Phạm Đặng Minh K mà không yêu cầu bà H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông và bà H không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phạm Đặng Minh K có lời khai: Cha mẹ ly hôn thì có nguyện vọng được sống với mẹ là Ngô Thị H và xin được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Ý kiến của kiểm sát viên:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. (Kèm theo bài phát biểu)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị H và ông Phạm Văn Đ có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Trường Thắng, huyện Thới Lai vào năm 2003 nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bà H vẫn giữ quan điểm xin ly hôn với ông Đ. Ông Đ thì không đồng ý ly hôn với bà H mà xin được đoàn tụ với bà H. Vấn đề này thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng của bà H và ông Đ đã đến mức trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu. Tòa án đã hòa giải hàn gắn nhằm động viên cho bà H và ông Đ đoàn tụ nhưng không có kết quả. Đối ông Đ vẫn không tự hàn gắn, đoàn tụ được với bà H. Xét đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp tục chung sống không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Hội đồng xét xử nghĩ cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H mà bác yêu cầu xin đoàn tụ của ông Đ. Cho bà Ngô Thị H ly hôn với ông Phạm Văn Đ là đúng với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Bà H và ông Đ đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Đặng Minh K mà không yêu cầu bên còn lại phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với Phạm Đặng Minh K, sinh ngày 21/11/2007 đến ngày xét xử sơ thẩm là đã trên 7 tuổi. Theo quy định của pháp luật phải tôn trọng ý kiến và nguyện vọng của con chung, Phạm Đặng Minh K có lời khai có nguyện vọng được sống chung với mẹ là Ngô Thị H nên cần giao Phạm Đặng Minh K cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là đúng thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về vấn đề cấp dưỡng: Do bà H tại phiên tòa sơ thẩm xác định không có yêu cầu ông Phạm Văn Đ phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Bà H và ông Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà H và ông Đ khai không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Cần buộc bà Ngô Thị H chịu nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35,39, Khoản 4 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 56, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên x:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Ngô Thị H. Không chấp nhận yêu cầu xin đoàn tụ của ông Phạm Văn Đ. Cho bà Ngô Thị H và ông Phạm Văn Đ được ly hôn với nhau.

Về con chung: Giao Phạm Đặng Minh K, sinh ngày 21/11/2007 cho bà Ngô Thị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Phạm Văn Được không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Phạm Văn Đ được quyền lui tới thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

Vì quyền và lợi ích mọi mặt của con chung, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung: Bà Ngô Thị H và ông Phạm Văn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Bà H và ông Đ khai không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Buộc bà Ngô Thị H chịu nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 015857 ngày 28/9/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Lai thành tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai. Có mặt nguyên đơn, bị đơn. Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày án sơ thẩm đã tuyên để xin Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 322/2020/HNGĐ-ST ngày 11/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung 

Số hiệu:322/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Lai - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về