Bản án 322/2019/HS-PT ngày 31/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 322/2019/HS-PT NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 249/2019/HSPT ngày 24 tháng 6 năm 201;9 đối với các bị cáo Nguyễn Thành T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 120/2019/HSST ngày 13/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thành T; sinh năm 1999; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 3, khối TNa, thị trấn PP, huyện TS, tỉnh BĐ; chỗ ở: số 7 Đường số 2, khu phố 3, phường TP, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông NVT (chết) và bà NTTV; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 30/10/2018 - (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thành T sử dụng ma túy tổng hợp từ tháng 8/2018. Vào khoảng 09h30’ ngày 30/10/2018, Nguyễn Thành T điều khiển xe máy biển số 59X2-148.xx đến khu vực đường LVT, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh gặp mua ma túy của người tên “Anh” (không rõ lai lịch) với giá 700.000 đồng rối cất giấu trong túi áo khoác bên trái phía trước mang về sử dụng dần. Đến khoảng 12h05’ cùng ngày, khi T điều khiển xe máy đến trước nhà số 60A Đường số 17, khu phố 3, phường LC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an phường LC kiểm tra phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ trong túi áo khoác bên trái phía trước của T: 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể không màu bỏ trong hộp quẹt diêm.

Khám xét nơi ở của Nguyễn Thành T tại nhà số 7 Đường số 2, Khu phố 3, phường TP, quận TĐ, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận TĐ phát hiện, lập biên bản thu giữ: 01 (một) gói nylon dán một đầu (gồm: 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể không màu và 10 (mười) viên nén màu xanh hình trơn). T khai là ma túy do tên Huy (không rõ lai lịch) đưa lúc 11h00’ ngày 20/10/2018, tại quán bar trên đường VVT, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh để T sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 1776/KLGĐ-H ngày 06/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký Nguyễn Thành T và hình dấu Công an phường LC, quận TĐ gửi đến giám định bên trong là tinh thể không màu gói nylon hàn kín trong hộp quẹt diêm được thu giữ ở túi áo khoác bên trái phía trước do Nguyễn Thành T đang mặc là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1155g (một phẩy một một năm năm gam), loại Methamphetamine.

- 01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký Nguyễn Thành T và hình dấu Công an phường TP, quận TĐ gửi đến giám định bên trong là: Tinh thể không màu trong một gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5209g (không phẩy hai năm không chín gam), loại Ketamine; 10 viên nén màu xanh hình tròn, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,3414g (ba phẩy ba bốn một bốn gam), loại MDMA Vật chứng vụ án: 02 gói niêm phong (gói 1 và gói 2) ghi vụ số 1776 có chữ ký của giám định viên TĐH, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định; 01 hộp quẹt diêm bên trong không chứa gì; 01 bình nước suối có gắn ống hút nhựa màu trắng; 01 cân điện tử màu đen; 01 đoạn ống hút nhựa màu cam sọc trắng dài 18cm cắt nhọn một đầu, bên trong không chứa gì; 05 gói nylon dán một đầu bên trong không chứa gì; 01 điện thoại Nokia màu hồng, kèm sim số thuê bao 0938440295;

Đi với 01 xe máy hiệu SYM loại Atila màu đen – đỏ biển số 59X2- 148-05 (số máy: AD-077362; số khung: BD-077362). Kết quả xác minh chiếc xe trên do Vũ Thị Thu A (sinh năm 1971; cư trú: số 7 Đường số 2, khu phố 3, phường TP, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên sở hữu và mua mới từ năm 2011 sử dụng làm phương tiện đi lại. Sáng ngày 30/10/2018, Nguyễn Thành T mượn chiếc xe của chị Vũ Thị Thu A là chủ nhà trọ đi công việc, chị A không biết T sử dụng mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe trên cho chị Vũ Thị Thu A là chủ sở hữu.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 120/2019/HSST ngày 13/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/5/2019, bị cáo Nguyễn Thành T kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thành T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì bản thân phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, gia đình có hoàn cảnh khó khăn và đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các tình tiết định khung, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), là có cơ sở pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong thời gian luật định và hợp lệ nên cần được xem xét.

Xét, Nguyễn Thành T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới để được xem xét, mức án 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thành T không tranh luận chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt vì gia đình có hoàn cảnh khó khăn và đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, mong muốn nhận được mức án khoan hồng để có cơ hội sớm chấp hành xong bản án và làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và bản cáo trạng truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: biên bản bắt người phạm tội quả tang, các biên bản (khám xét, thu giữ và niêm phong vật chứng), bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng; cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thành T, theo bản kết luận giám định số 1776/KLGĐ-H ngày 06/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Toàn bộ là các chất ma túy ở thể rắn có tổng khối lượng là 4,9778 gam, bao gồm: 3,3414g loại MDMA; 1,1155g loại Methamphetamine và 0,5209g loại Ketamine.

Xét, đã đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 30/10/2018, bị cáo Nguyễn Thành T đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang và qua khám xét thu giữ tại nơi ở các chất ma túy ở thể rắn có tổng khối lượng là 4,9778 gam, bao gồm: 3,3414g loại MDMA; 1,1155g loại Methamphetamine và 0,5209g loại Ketamine.

Hành vi phạm tội của Nguyễn Thành T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm về ma túy và tệ nạn xã hội khác; gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn nhu cầu bất chính của bản thân vẫn cố ý phạm tội.

Như vậy, với khối lượng ma túy đã cất giấu trái phép và hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thành T, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

Xét về hình thức đơn kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/5/2019 bị cáo Nguyễn Thành T có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành T đề nghị xem xét có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự và gia đình có hoàn cảnh khó khăn; là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), là có căn cứ nên được chấp nhận.

Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo Phạm Thành T, mặc dù bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ nêu trên nhưng khối lượng các chất ma túy bị cáo tàng trữ trái phép là 4,9778g (gần ở mức khối lượng cao nhất của khung hình phạt bị áp dụng); nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T mức án 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù là thỏa đáng; phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và mới đủ tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh, phòng ngừa chung. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thành T là không có cơ sở để chấp nhận và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

+Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

+Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành T và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

+Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thành T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2018.

+Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 322/2019/HS-PT ngày 31/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:322/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về