Bản án 32/2021/DS-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 32/2021/DS-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN    

Ngày 23 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 391/2020/TLST-DS ngày 08 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2021/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa dân sự sơ thẩm số: 38/2021/QĐST-DS ngày 03 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng S. Địa chỉ: thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng S:

- Ông S1, chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân hàng S. Địa chỉ: thành phố Hà Nội. (Là người đại diện theo pháp luật, ông S1vắng mặt) 

- Ông S2, Chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng S huyện Kế Sách thuộc chi nhánh Ngân hàng S tỉnh Sóc Trăng (Là người đại diện theo ủy quyền theo Quyết định ủy quyền số 7300/QĐ-NHCS ngày 19/9/2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng S, ông S2 vắng mặt)

- Ông S3, chức vụ: Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng S huyện Kế Sách thuộc chi nhánh Ngân hàng S tỉnh Sóc Trăng (Là người đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền số 33/NHCS-UQ ngày 01/4/2020 của Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng S huyện Kế Sách thuộc chi nhánh Ngân hàng S tỉnh Sóc Trăng, ông S3 có mặt)

2. Bị đơn: Ông N. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà K. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/12/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng S do ông S3 là người đại diện hợp pháp trình bày: Thực hiện các chương trình tín dụng cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, Ngân hàng S huyện Kế Sách đã xem xét và thỏa thuận cho vay với lãi suất ưu đãi… để giải quyết khó khăn và phát triển kinh tế hộ gia đình ở địa phương.

Vào ngày 30/10/2010, Ngân hàng phê duyệt cho hộ ông N vay số tiền vốn: 10.000.000đồng, lãi suất: 0,65%/tháng, thời hạn cho vay: 60 tháng, kỳ hạn trả nợ: 12 tháng/lần, hạn trả cuối cùng là ngày 18/10/2015 của chương trình cho vay: Hộ nghèo, mục đích sử dụng: Cải tạo vườn nhãn.

Vào ngày 06/12/2010, Ngân hàng tiếp tục phê duyệt cho hộ ông N vay số tiền vốn: 8.000.000đồng, lãi suất: 0,25%/tháng, thời hạn cho vay: 120 tháng, kỳ hạn trả nợ: 12 tháng/lần, hạn trả cuối cùng là ngày 18/11/2020 của chương trình cho vay: Hộ nghèo về nhà ở, mục đích sử dụng: Xây dựng nhà ở. Tổng cộng hộ ông N đã vay của 02 chương trình với tổng số tiền vốn là 18.000.000đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng hộ ông N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán (kể cả vốn gốc và tiền lãi) theo thỏa thuận. Tính đến thời điểm ngày 30/10/2020, hộ ông N đã trả vốn gốc là 0đồng, trả lãi là 1.382.500đồng, tổng cộng số tiền còn nợ là 24.761.000đồng (trong đó nợ gốc là 18.000.000đồng, tiền lãi là 6.761.000đồng. Mặc dù phía Ngân hàng đã phối hợp với chính quyền địa phương, Hội đoàn thể vận động gia đình thực hiện nghĩa vụ để thu hồi nợ cho Nhà nước nhưng không có kết quả.

Nay Ngân hàng S yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông N và bà K có trách nhiệm hoàn trả số tiền là 24.761.000đồng (trong đó nợ gốc là 18.000.000đồng, tiền lãi là 6.761.000đồng) và tiền lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong khoản nợ theo mức lãi suất của hợp đồng tín dụng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của Ngân hàng S yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông N và bà K có trách nhiệm hoàn trả số tiền là 24.113.000đồng (trong đó nợ gốc là 18.000.000đồng, tiền lãi là 6.113.000đồng) và tiền lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong khoản nợ theo mức lãi suất của hợp đồng tín dụng.

* Bị đơn ông N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà K: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông N và bà K nhưng ông N và bà K không có mặt tham gia tố tụng theo các giấy triệu tập của Tòa án và cũng không có ý kiến trình bày hay yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ngân hàng S vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng S; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo nội dung yêu cầu khởi kiện, Ngân hàng S yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N và bà K trả nợ vay cho Ngân hàng theo hợp đồng vay tài sản mà hai bên đã ký kết. Do vậy, TAND huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Ông N là bị đơn, có địa chỉ cư trú tại ấp A, xã B, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Do vậy, TAND huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng S là ông S1 và ông S2 vắng mặt nhưng có ông S3 là người đại diện theo ủy quyền (trường hợp được ủy quyền lại) tham gia phiên tòa; bị đơn ông N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do và không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, việc vắng mặt của họ cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N và bà K trả nợ vay cho Ngân hàng theo hợp đồng vay tài sản mà hai bên đã ký kết, thấy rằng: Theo các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng S cung cấp gồm 01 sổ vay vốn, 02 giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay được phê duyệt các ngày 30/10/2010, 06/12/2010 và 02 sổ lưu tờ rời theo dõi cho vay - thu nợ - dư nợ giải ngân các ngày 03/11/2010, 10/12/2010 thể hiện: Người vay là ông N (có người thừa kế là bà K) có thỏa thuận vay tiền của Ngân hàng tổng cộng 02 lần; lần thứ nhất ông N được Ngân hàng phê duyệt cho vay số tiền vốn là 10.000.000đồng vào ngày 30/10/2010, mã món vay 6000006200076534, thời hạn vay là 60 tháng, kỳ hạn trả nợ là 12 tháng/lần, hạn trả nợ cuối cùng là ngày 18/10/2015, theo chương trình cho vay hộ nghèo để thực hiện phương án cải tạo vườn nhãn, lãi suất vay trong hạn là 0,65%/tháng, lãi suất vay quá hạn là 130% lãi suất cho vay trong hạn...; lần thứ hai ông N được Ngân hàng phê duyệt cho vay số tiền vốn là 8.000.000đồng vào ngày 06/12/2010, mã món vay 6000006200076535, thời hạn vay là 120 tháng, kỳ hạn trả nợ là 12 tháng/lần, hạn trả nợ cuối cùng là ngày 18/11/2020, theo chương trình cho vay hộ nghèo về nhà ở để thực hiện phương án xây dựng nhà ở, lãi suất vay trong hạn là 0,25%/tháng, lãi suất vay quá hạn là 130% lãi suất cho vay trong hạn...; 02 hợp đồng vay tài sản này được các bên ký kết theo quy định của pháp luật; Ngân hàng đã tiến hành giải ngân cho ông N nhận đối với tổng số tiền vốn vay là 18.000.000đồng; tính đến ngày xét xử sơ thẩm 23/02/2021 thì ông N còn nợ Ngân hàng tổng số tiền là 24.113.000đồng (trong đó theo hợp đồng vay tài sản, mã món vay 6000006200076534 nợ gốc là 10.000.000đồng, tiền lãi là 4.215.000đồng; theo hợp đồng vay tài sản, mã món vay 6000006200076535 nợ gốc là 8.000.000đồng, tiền lãi là 1.898.000đồng). Việc thỏa thuận vay tiền giữa ông N với Ngân hàng là hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng, không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch dân sự là hợp đồng, phù hợp với quy định tại các Điều 121, 122, 123 Bộ luật Dân sự năm 2005, hình thức và nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định tại các Điều 124, 402, 471 Bộ luật Dân sự năm 2005; hợp đồng đã có hiệu lực theo quy định tại Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2005; thời hiệu khởi kiện về hợp đồng vẫn còn theo quy định tại Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do ông N vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc theo thỏa thuận trong 02 hợp đồng vay tài sản nên Ngân hàng yêu cầu buộc ông N trả lại toàn bộ số tiền nợ gốc còn nợ và số tiền lãi phát sinh là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các khoản 1, 5 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005, các khoản 1, 2 Điều 54 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), khoản 4 Điều 161 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Từ đó, việc Ngân hàng yêu cầu ông N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ vay 24.113.000đồng nêu trên, là có căn cứ để chấp nhận. 

[5] Về trách nhiệm trả nợ: Việc ông N vay tiền của Ngân hàng phát sinh trong thời kỳ ông N và bà K là vợ chồng và chung sống với nhau, tiền vay được sử dụng vào mục đích cải tạo vườn nhãn và xây dựng nhà ở đều nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu và vì lợi ích chung của hộ gia đình, bà K biết rõ việc ông N vay tiền của Ngân hàng và có ký tên vào các giấy tờ liên quan đến việc vay tiền. Từ đó, có đủ cơ sở xác định nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng theo 02 hợp đồng vay tài sản là nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung) của ông N và bà K vừa với tư cách là vợ chồng và vừa với tư cách là các thành viên của hộ gia đình theo quy định tại Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các Điều 107, 110, 298 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó, bà K phải có nghĩa vụ liên đới cùng với ông N trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ vay 24.113.000đồng nêu trên.

[6] Kể từ ngày 24/02/2021 (ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm) cho đến khi thi hành án xong, ông N và bà K còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong các hợp đồng vay tài sản; trường hợp trong các hợp đồng vay tài sản, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng S thì lãi suất mà ông N và bà K phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng S cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng S (điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 và Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao).

[7] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S, buộc ông N và bà K phải cùng có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng S tổng số tiền nợ vay là 24.113.000đồng.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm: Ngân hàng S không phải chịu án phí sơ thẩm; ông N và bà K phải cùng chịu án phí sơ thẩm tương ứng trên số tiền nợ vay phải trả cho Ngân hàng S là 24.113.000đồng x 5% = 1.205.650đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều  26  Nghị  quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016  của  Ủy  ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; 

Căn cứ vào các Điều 107, 110, 121, 122, 123, 124, 298, 402, 405, 427, 471, các khoản 1, 5 Điều 474, Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; các khoản 1, 2 Điều 54 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004); khoản 4 Điều 161 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26, điểm e khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tuyên xử  :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S về hợp đồng vay tài sản.

Buộc ông N và bà K phải cùng có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng S số tiền nợ vay tổng cộng là 24.113.000đồng (Hai mươi bốn triệu một trăm mười ba nghìn  đồng),   gồm   nợ   gốc   là   18.000.000đồng,  lãi  nợ   gốc   trong  hạn   là 6.113.000đồng. Cụ thể như sau:

-  Hợp  đồng  vay  tài  sản,  mã  món  vay  6000006200076534: Nợ  gốc  là 10.000.000đồng, lãi nợ gốc trong hạn là 4.215.000đồng.

-  Hợp  đồng  vay  tài  sản,  mã  món  vay  6000006200076535: Nợ  gốc  là 8.000.000đồng, lãi nợ gốc trong hạn là 1.898.000đồng.

Kể từ ngày 24/02/2021 cho đến khi thi hành án xong, ông N và bà K còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong các hợp đồng vay tài sản. Trường hợp trong các hợp đồng vay tài sản, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng S thì lãi suất mà ông N và bà K phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng S cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng S.

2. Về án phí sơ thẩm: Ngân hàng S không phải chịu án phí sơ thẩm. Ông N và bà K phải cùng chịu án phí sơ thẩm với số tiền là 1.205.650đồng (Một triệu hai trăm lẻ năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng).

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Riêng đối với các đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo nêu trên được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2021/DS-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:32/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về