Bản án 32/2021/DS-ST ngày 08/04/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 32/2021/DS-ST NGÀY 08/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 323/2020/TLST-DS ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2021/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 130/2021/QĐST-DS ngày 16 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1955; địa chỉ: số A, ấp T, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn - Bà Nguyễn Kim L, sinh năm 1969; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Ông Trần Dương H1, sinh năm 1970; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 24/8/2020 và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Th Mỹ H cho rằng, vào ngày 02/5/2019, bà Nguyễn Kim L và ông Trần Dương H1 có vay của bà H số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn vay 15 ngày. Đến ngày 10/5/2019, bà L, ông H1 tiếp tục vay của bà H số tiền 30.000.000 đồng, thời hạn vay 10 ngày. Tổng số tiền mà bà L, ông H1 vay của bà H là 130.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ, bà L, ông H1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận, mặc dù, bà H đã nhiều lần yêu cầu.

Vì vậy, bà H yêu cầu bà L, ông H1 trả số tiền vay còn nợ 130.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo quy định pháp luật từ ngày 10/5/2019 đến ngày Tòa án xét xử.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện gồm có: Biên nhận nợ ngày 02/5/2019 có chữ ký, chữ viết đề họ và tên Nguyễn Kim L, Trần Dương H1 (bản photo); biên nhận nợ ngày 10/5/2019 có chữ ký, chữ viết đề họ và tên Nguyễn Kim L (bản photo).

- Theo lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Trần Dương H1 trình bày, vào ngày 02/5/2019, ông H1 và bà Nguyễn Kim L (vợ của ông H1) có vay của bà H số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn vay 15 ngày. Đến ngày 10/5/2019, ông H1, bà L tiếp tục vay của bà H số tiền 30.000.000 đồng, thời hạn vay 10 ngày. Tổng số tiền mà ông H1, bà L vay của bà H là 130.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ, do không có khả năng nên ông H1, bà L chưa trả nợ cho bà H.

Ông H1 thừa nhận ông H1, bà L còn nợ bà H số nợ vốn 130.000.000 đồng và yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Đối với nợ lãi, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên ông H1 đề nghị bà H không tính lãi.

- Bà Nguyễn Kim L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm. Bên cạnh đó, bà Hường còn khai, các khoản vay mà bà H đang tranh chấp là khoản vay có thỏa thuận lãi suất 8%/tháng nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Trần Dương H1 đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn bà Nguyễn Kim L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử là phù hợp Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Ngày 02/5/2019, bà L, ông H1 vay của bà H số tiền 100.000.000 đồng, có làm biên nhận và trong biên nhận nợ không thỏa thuận lãi suất, thỏa thuận thời gian trả 15 ngày. Đến ngày 10/5/2019, bà L, ông H1 tiếp tục vay 30.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất, thời hạn trả 10 ngày, mục đích đáo nợ ngân hàng. Đến thời hạn thỏa thuận nhưng bà L, ông H1 không thực hiện. Vì vậy, bà H yêu cầu bà L, ông H1 trả 130.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật kể từ ngày 10/5/2019 đến khi xét xử sơ thẩm.

Ông H1 thừa nhận có vay bà H 130.000.000 đồng, đồng ý trả, yêu cầu không tính lãi suất. Bà L đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nên không ghi nhận được ý kiến.

Xét thấy, căn cứ bà H khởi kiện là các biên nhận nợ ngày 02/5/2019, 10/5/2019 thể hiện ông H1, bà L vay của bà H tổng cộng 130.000.000 đồng, có chữ ký của ông H1, bà L và tại Tòa án ông H1 thừa nhận còn nợ bà H 130.000.000 đồng nên việc bà H khởi kiện yêu cầu bà L, ông H1 trả 130.000.000 đồng là có căn cứ.

Về lãi suất, do bà L, ông H1 vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà H yêu cầu tính lãi suất là có căn cứ. Tại phiên tòa, bà H cho rằng thỏa thuận miệng lãi suất 08%/tháng nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Đồng thời, các biên nhận nợ ngày 02/5/2019, 10/5/2019 không thể hiện mức lãi suất. Cho nên, lãi suất sẽ được tính là 10%/năm theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, từ ngày 18/5/2019 (đối với khoản vay 100.000.000 đồng) và từ ngày 21/5/2019 (đối với khoản vay 30.000.000 đồng) cho đến ngày xét xử sơ thẩm.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463, 466, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, công nhận hợp đồng vay tài sản của bà H và bà L, ông H1; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H; buộc ông H1, bà L trả cho bà H 130.000.000 đồng và tính lãi suất 10%/năm đối với số tiền 100.000.000 đồng từ ngày 18/5/2019 đến ngày 08/4/2021; số tiền 30.000.000 đồng được tính từ ngày 21/5/2019 đến ngày 08/4/2021.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về tố tụng

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Phạm Thị Mỹ H khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Trần Dương H1, bà Nguyễn Kim L trả nợ vay. Ông H1, bà L đang cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới nên yêu cầu kiện của bà H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, ông H1, bà L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H1, bà L theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung [3] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng vay tài sản:

Bà Phạm Thị Mỹ H, ông Trần Dương H1 thống nhất, vào ngày 02/5/2019, bà L, ông H1 vay của bà H số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn vay 15 ngày; đến ngày 10/5/2019, bà L, ông H1 tiếp tục vay của bà H số tiền 30.000.000 đồng, thời hạn vay 10 ngày. Tổng số tiền mà bà L, ông H1 vay của bà H là 130.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ, bà L, ông H1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận, mặc dù, bà H đã nhiều lần yêu cầu.

Lời khai của bà H, ông H1 phù hợp với nội dung các biên nhận nợ ngày 02/5/2019 và 10/5/2019 có chữ ký, chữ viết đề họ tên người vay Trần Dương H1, Nguyễn Kim L.

Tại phiên tòa, bà H khai, các khoản vay đang tranh chấp là khoản vay có thỏa thuận lãi suất 8%/tháng. Tuy nhiên, bà H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Cho nên, không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét.

Vì vậy, có căn cứ xác định ông H1, bà L vay của bà H 02 lần với tổng số tiền 130.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất và chưa thanh toán nợ.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Bà H yêu cầu ông H1, bà L trả cho bà H nợ vốn 130.000.000 đồng và nợ lãi từ ngày 10/5/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Do đây là khoản vay không thỏa thuận lãi suất, có thời hạn nên ông H1, bà L phải chịu lãi kể từ ngày hết hạn vay, ngày 18/5/2019 đối với khoản vay 100.000.000 đồng và ngày 21/5/2019 đối với khoản vay 30.000.000 đồng với mức lãi suất 10%/năm (0,833%/tháng), theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, tiền lãi mà bên vay còn phải thanh toán từ ngày đến hạn thanh toán cho đến ngày xét xử sơ thẩm là: 100.000.000 đồng x 0,833%/tháng x 22,73 tháng = 18.934.090 đồng. 30.000.000 đồng x 0,833%/tháng x 22,63 tháng = 5.655.237 đồng.

Như vậy, tổng số nợ vốn, lãi mà bên vay còn nợ bên cho vay là 154.589.327 đồng.

Do ông H1, bà L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà H khởi kiện yêu cầu ông H1, bà L trả số nợ còn lại và yêu cầu trả lãi là phù hợp với quy định tại các Điều 466, 468, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, buộc ông H1, bà L có nghĩa vụ trả cho bà H nợ vay 154.589.327 đồng.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông H1, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho bà H là 7.729.466 đồng.

Bà Phạm Thị Mỹ H được miễn nộp tạm ứng án phí và án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ các Điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/U TVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy đ nh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Mỹ H.

Buộc ông Trần Dương H1, bà Nguyễn Kim L có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị Mỹ H số nợ vay 154.589.327 (một trăm năm mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi chín nghìn, ba trăm hai mươi bảy) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trần Dương H1, bà Nguyễn Kim L phải chịu 7.729.466 (bảy triệu, bảy trăm hai mươi chín nghìn, bốn trăm sáu mươi sáu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Phạm Thị Mỹ H được miễn nộp tạm ứng án phí và án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.

3. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Phạm Thị Mỹ H có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Trần Dương H1, bà Nguyễn Kim L được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đ nh tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2021/DS-ST ngày 08/04/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:32/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về