Bản án 32/2020/KDTM-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 32/2020/KDTM-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 14 tháng 7 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Quận 7, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 24/2020/TLST-KDTM ngày 13 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-KDTM ngày 03 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2020/QĐST-KDTM ngày 25 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân T; Địa chỉ trụ sở: Số A, Đường số B, phường Tân Quy, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của Quỹ tín dụng nhân dân T: Ông Bùi Minh S; sinh năm 1986; Địa chỉ: Số C Đường số D, phường Tân Kiểng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh - Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 235/UQ-QTD ngày 16/12/2019) (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Lâm Thị Tú K, sinh năm 1970; Địa chỉ: Số E đường R, Khu phố T, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Vũ H, sinh năm 1962; Địa chỉ: Số E đường R, Khu phố T, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn tại đơn khởi kiện ngày 11/02/2020 (Công văn đến Tòa án ngày 12/02/2020), trong quá trình giải quyết và xét xử vụ án có ông Bùi Minh S là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 10/12/2018, bà Lâm Thị Tú K và Quỹ tín dụng nhân dân T (sau đây gọi là Quỹ tín dụng) có ký kết Hợp đồng tín dụng kiêm đề nghị vay vốn và phương án sử dụng vốn số 1-0003055/HĐTD (sau đây gọi tắt là Hợp đồng tín dụng) để bà K vay số tiền 30.000.000 (Ba mươi ba triệu) đồng, thời hạn vay 12 tháng, ngày đến hạn trả nợ là ngày 10/12/2019, với lãi suất thời điểm ký hợp đồng là 9,6%/năm, mục đích sử dụng: Buôn bán quần áo.

Căn cứ theo bảng kê các loại tiền chi ra ngày 10/12/2018 với số tiền là 30.000.000 đồng có chữ ký xác nhận của người nhận tiền là Lâm Thị Tú K; Giấy nhận nợ ngày 10/12/2018 và Phiếu chi ngày 10/12/2018 thì bà K đã nhận đủ tiền vay.

Quá trình thực hiện hợp đồng, định kỳ hàng tháng vào ngày giải ngân hợp đồng tín dụng (Ngày 10 dương lịch hàng tháng) bà K phải góp số tiền gốc là 2.500.000 đồng, tiền lãi là 240.000 đồng và gửi một khoản tiền tiết kiệm là 300.000 đồng/tháng (Khoản tiền gửi này sẽ được hưởng lãi và được trả lại khi bị đơn thanh toán xong khoản nợ vay, hoặc sẽ cấn trừ để trả số tiền gốc nếu bị đơn không thanh toán nợ cho nguyên đơn).

Quá trình vay, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn số tiền gốc là 14.009.200 đồng (đã cấn trừ tiền bà K gửi tiết kiệm và tiền lãi là 1.509.200 đồng) và đã trả số tiền lãi là 1.200.000 đồng.

Kể từ ngày 10/05/2019, bà Lâm Thị Tú K vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Quỹ tín dụng như đã thỏa thuận và đến ngày 11/12/2019, Hợp đồng tín dụng của bà K đã quá hạn.

Do bà K đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và Hợp đồng tín dụng đã quá hạn nên Quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lâm Thị Tú K phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Tính đến ngày 14/7/2020, bà Lâm Thị Tú K còn nợ Quỹ tín dụng số tiền theo Hợp đồng tín dụng số 1-0003055/HĐTD là 19.367.800 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 15.990.800 đồng và tiền lãi là 3.377.000 đồng.

Quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Quận 7 giải quyết: Buộc bà Lâm Thị Tú K phải trả cho Quỹ tín dụng số tiền tính đến ngày 14/7/2020 là: 19.098.800 đồng và tiền lãi tiếp tục tính kể từ ngày 15/7/2020 theo lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng cho đến ngày bà K trả hết nợ. Yêu cầu trả một lần toàn bộ số tiền ngay sau khi bản án của Toà án có hiệu lực. Nguyên đơn không yêu cầu ông Lê Vũ H phải có trách nhiệm trả nợ căn cứ vào Giấy cam kết bảo lãnh về việc trả nợ vay ngày 04/12/2018 do ông Lê Vũ H là người đứng ra bảo lãnh.

Về phía bị đơn bà Lâm Thị Tú K, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Vũ H: trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Quận 7 đã nhiều lần triệu tập bà K đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ kiện theo đúng quy định pháp luật nhưng bà K không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do, không có văn bản, ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn, người đại diện của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hợp đồng tín dụng đã ký thì thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại đơn khởi kiện nguyên đơn cung cấp địa chỉ cư trú hiện tại của bị đơn bà Lâm Thị Tú K là số E đường R, Khu phố T, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo địa chỉ được bà K ghi trong Hợp đồng tín dụng số 1-0003055/HĐTD ngày 10/12/2018 và các văn bản khác ký kết với nguyên đơn đều thể hiện bà K thường trú tại địa chỉ số E đường R, Khu phố T, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo kết quả trả lời của Công an phường Tân Hưng, Quận 7 tại Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 28/2020/QĐ-CCTLCC ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân Quận 7 thì đương sự Lâm Thị Tú K có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ nêu trên nhưng không còn cư ngụ tại địa phương, đi đâu không rõ từ 2018.

Vì vậy trong đơn khởi kiện nguyên đơn đã ghi đúng và đầy đủ địa chỉ nơi cư trú của bị đơn bà Lâm Thị Tú K. Nay bà K vắng mặt tại địa phương nhưng không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú mới theo quy định tại Khoản 3 Điều 40, Điểm b Khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ. Căn cứ Điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

[1.2] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã vay theo hợp đồng tín dụng- Đây là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” là loại tranh chấp được quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3] Đối với bị đơn bà Lâm Thị Tú K là trường hợp được coi là cố tình giấu địa chỉ, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Vũ H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt: Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh: Tại Khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn không có ý kiến phản hồi và không phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi. Căn cứ Khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bà Lâm Thị Tú K đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa tham gia tố tụng, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ việc trên theo những chứng cứ có trong hồ sơ.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của đương sự:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền vốn và lãi tính đến ngày 14/7/2020 theo Hợp đồng tín dụng số 1-0003055/HĐTD ngày 10/12/2018 với số tiền là 19.367.800 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 15.990.800 đồng và tiền lãi là 3.377.000 đồng; Yêu cầu trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra kể từ ngày 15/7/2020, bị đơn còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng đã ký cho đến khi thanh toán hết nợ. Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 1-0003055/HĐTD ngày 10/12/2018 được ký giữa Quỹ tín dụng nhân dân T và bà Lâm Thị Tú K, Giấy nhận nợ, Bảng kê nhận tiền ngày 10/12/2018 và các chứng cứ khác trong hồ sơ có cơ sở xác định bà Lâm Thị Tú K có đề nghị vay và đã được nguyên đơn chấp thuận cho vay và giải ngân đủ số tiền 30.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà K đã thanh toán được số tiền 16.808.000 đồng, từ tháng 5 năm 2019 thì ngưng không thanh toán nữa. Tính đến ngày 14/7/2020, bà K còn nợ Quỹ tín dụng nhân dân T số tiền là 19.367.800 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 15.990.800 đồng và tiền lãi là 3.377.000 đồng.

[3.2] Căn cứ các điều khoản ký kết trong Hợp đồng tín dụng số 1- 0003055/HĐTD ngày 10/12/2018 thì bà K đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, vi phạm Điều 5 của hợp đồng tín dụng. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ tính đến ngày 14/7/2020 số tiền là 19.367.800 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 15.990.800 đồng và tiền lãi là 3.377.000 đồng là phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng đã ký kết, phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 91, Khoản 2 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng nên có cơ sở và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm bị đơn vẫn phải trả lãi theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 1-0003055/HĐTD ngày 10/12/2018 cho đến khi trả hết nợ.

[3.3] Về thời hạn trả nợ: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền còn nợ một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên với yêu cầu này của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là 3.000.000 đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã đóng theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 68; Khoản 4 Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 273 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Khoản 2 Điều 91 và Khoản 2 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật phí, lệ phí và Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung 2014; Xử:

1. Về hình thức: Xử vắng mặt bị đơn bà Lâm Thị Tú K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Vũ H.

2. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân T.

2.1. Buộc bà Lâm Thị Tú K phải thanh toán cho Quỹ tín dụng nhân dân T tổng số tiền nợ tính đến ngày 14/7/2020 là 19.367.800 (Mười chín triệu ba trăm sáu mươi bảy ngàn tám trăm) đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 15.990.800 (Mười lăm triệu chín trăm chín mươi ngàn tám trăm) đồng và tiền lãi là 3.377.000 (Ba triệu ba trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2.2. Kể từ ngày 15/7/2020, bà Lâm Thị Tú K còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 1-0003055/HĐTD ngày 10/12/2018 và các văn bản tín dụng cho đến khi thi hành án xong.

2.3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Lâm Thị Tú K phải chịu 3.000.000 (Ba triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Quỹ tín dụng nhân dân T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại Quỹ tín dụng nhân dân T số tiền tạm ứng án phí đã đóng là 3.000.000 (Ba triệu) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0032231, AA/2018/0032224 ngày 13/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án:

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

4. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn Quỹ tín dụng nhân dân T được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn bà Lâm Thị Tú K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Vũ H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/KDTM-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:32/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về