Bản án 32/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

BÙI CHƯƠNG D, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1981 tại thị trấn V- huyện L - Hòa Bình. Nơi cư trú: Phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đình Ư và bà Trần Thị L; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không.

Tiền sự: Có 01 tiền sự: Ngày 16/12/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Chấp hành từ ngày 11/12/2016 đến ngày 10/12/2018 chấp hành xong).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/4/2020, tạm giam từ ngày 11/4/2020. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964. Trú tại: Phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

Ông Phạm Đức T, sinh năm 1967. Trú tại: Phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 02/4/2020, tại phố Đ, thị trấn V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn phối hợp với Công an thị trấn V trong quá trình gọi hỏi Bùi Chương D về việc D sử dụng trái phép chất ma túy thì phát hiện và bắt quả tang Bùi Chương D đang tàng trữ trong túi quần bên phải của mình 05 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng. Bị cáo khai là ma túy mua được của một người đàn ông không quen biết tại khu vực bên xe trung tâm thị trấn V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình lúc khoảng 7 giờ, ngày 02/4/2020 với giá 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng được 03 gói. Bị cáo mang số ma túy trên về nhà chia thành 05 gói để dùng dần cho bản thân.

Theo kết luận giám định số 81/KLGĐ-CAT-PC09, ngày 07/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình thì 05 gói chất bột màu trắng thu giữ từ Bùi Chương D là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,16g (Không phẩy mười sáu gam).

Tang vật thu giữ được tại giai đoạn điều tra gồm: 05 mẫu ma túy là Heroine (gói 1: 0,01g; gói 2: 0,01g; gói 3: 0,02g; gói 4: 0,01g; gói 5: 0,01g) có tổng khối lượng còn lại sau giám định là 0,06g, được niêm phong theo quy định của pháp luật. Vật chứng nêu trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình chờ xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 19/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Chương D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại bến xe trung tâm thị trấn V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Cơ quan điều tra không xác định được nhân dạng, căn cước nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố, tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015. Có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là thành khẩn khai báo; có bố đẻ là người có công được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng Nhì theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo do bị cáo là người không có điều kiện về kinh tế. Về vật chứng của vụ án: đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình; không có ý kiến gì về nội dung cáo trạng phản ánh; không kêu oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2] Về căn cứ xác định tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo: Ngày 02/4/2020, bị cáo Bùi Chương D đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; đã để trong túi quần bên phải mình đang mặc 05 gói Heroine có tổng khối lượng là 0,16g (Không phẩy mười sáu gam) Heroine mà không nhằm mục đích vận chuyển, mua bán, sản xuất trái phép chất ma túy. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 0,5 gam. Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, tang vật thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm "Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản luật áp dụng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhận thức xã hội, có hiểu biết pháp luật, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng lại nghiện chất ma túy, không từ bỏ được ma túy. Ma túy không chỉ làm hại chính bản thân bị cáo về sức khỏe, tài chính mà còn là hiểm họa của xã hội, là nguyên nhân gây suy kiệt giống nòi và là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu; đã từng bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng không cai được nghiện. Do vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra bị cáo có bố đẻ là người có công được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng Nhì là tình tiết Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người có thu nhập không ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng là 05 gói Heroine mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình là các chất ma túy, là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Chương D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Chương D 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính ngày tạm giữ 02/4/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu giám định ma túy của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình số 22 ngày 02/4/2020, bên ngoài ghi tên đối tượng Bùi Chương D, bên trong chứa 05 mẫu Heroine sau giám định.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho số NK 0035 ngày 23/6/2020).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Chương D phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về