Bản án 32/2020/HS-ST ngày 13/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N B, TỈNH N B

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 13/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2020/TLST- HS ngày 17 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 03 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị M (Tên gọi khác: không), sinh năm 1969; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn 7, xã Ph S, huyện Nh Q, tỉnh N B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Đạo Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Đ ( đã chết) và bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1923 ; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư; Chồng: Nguyễn Văn M; có 03 con: Con lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1993.

Tiền án: Bản án số 05 ngày 28/05/2015 Tòa án nhân dân huyện L Th tỉnh H B xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 24 tháng và phạt 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 28/5/2017. Đối với số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, qua xác minh: Chi cục thi hành án dân sự huyện L Th, tỉnh H B không nhận được bản án số 05 ngày 28/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện L Th tỉnh H B để ra quyết định thi hành án.

Nhân thân:

- Bản án số 05 ngày 20/02/1995 Tòa án nhân dân thị xã T Đ tỉnh N B xử phạt 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án này.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/12/2019 đến ngày 06/12/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh N B đến nay (Có mặt tại phiên tòa) 1. Bị hại: chị Vũ Thị N, sinh năm 1976; Địa chỉ : Xóm Chùa, xã Kh H, huyện Y Kh, tỉnh N B ( vắng mặt).

2. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1991; Địa chỉ : thôn 7, xã Ph S, huyện Nh Q, tỉnh N B ( có mặt).

3. Người làm chứng:

- Chị Mai Thị Nh, sinh năm 1953 ( vắng mặt);

- Anh Nguyễn Quang Ph, sinh năm 1988 ( vắng mặt );

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị M là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài, khoảng 05 giờ ngày 01/12/2019 M đi xe buýt từ nhà ở xã Ph S huyện Nh Q tỉnh N B xuống khu vực thành phố N B mục đích tìm người sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 7 giờ 30 phút cùng ngày, khi xe buýt dừng đỗ để trả khách tại khu vực siêu thị Big C, thuộc địa phận xã N Ph, thành phố N B. Khi đi vào trong chợ, M phát hiện thấy chị Vũ Thị N, sinh năm 1976 trú tại xóm Ch xã Kh H huyện Y Kh tỉnh N B đang đứng xem giày, dép ở gian hàng gần bờ tường cuối chợ Bợi. M phát hiện thấy tại túi áo khoác bên trái của chị N đang mặc có để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A10S màu đỏ, bên ngoài bọc ốp điện thoại màu trắng bằng silicon, M xác định sẽ lấy trộm chiếc điện thoại trên. Sau đó, M đi áp sát vào gần chị N để giả làm người mua hàng, đồng thời M đưa tay trái đang đeo một chiếc túi nilon màu đen lên vị trí túi áo bên trái đang để điện thoại của chị N nhằm mục đích để che tầm quan sát của mọi người xung quanh, sau khi áp sát và thấy chị N không để ý, M dùng tay phải lấy chiếc điện thoại Sam sung Galaxy A10S màu đỏ ra khỏi túi áo của chị N. Khi M vừa lấy được chiếc điện thoại của chị N cầm trên tay phải và bỏ đi thì bị chị N phát hiện giữ người M lại, M thấy bị phát hiện liền thả chiếc điện thoại vừa lấy trộm của chị N xuống nền chợ Bợi làm điện thoại bị vỡ kính màn hình và bị Tổ công tác Công an xã N Ph, thành phố N B đang làm nhiệm vụ tại chợ Bợi phát hiện bắt quả tang. Tổ công tác đã thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A10S màu đỏ bị vỡ, nứt màn hình bên ngoài có bọc ốp nhựa màu trắng bằng silicon là tài sản M trộm cắp của chị N; thu giữ của M 01 chiếc túi bóng nilon màu đen kích thước (23x24) cm; 01 áo khoác gió màu đen kích thước ( 40x60) cm có mũ.

Ngày 02/12/2019 cơ quan điều tra tiến hành định giá tài sản đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A10S màu đỏ có gắn 01 ốp nhựa màu trắng bằng silicon. Tại bản kết luận định giá tài sản số 95 ngày 02/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A10S màu đỏ trị giá 2.952.000 đồng; 01 chiếc ốp điện thoại màu trắng bằng silicon trị giá 48.000 đồng.

Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 16/2/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B tỉnh N B đã truy tố Nguyễn Thị M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Thị M đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự ; điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự vì theo hướng có lợi cho bị cáo. Xử phạt Nguyễn Thị M từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra để giải quyết do bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho chị Vũ Thị N và chị N không yêu cầu gì khác.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là phương tiện phạm tội và không có giá trị sử dụng gồm: 01 túi bóng nilon kích thước ( 23x24cm); Trả lại cho bị cáo 01 áo khoác gió màu đen.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thị M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Do không có việc làm ổn định, để có tiền tiêu sài cá nhân. Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 01/12/2019, tại chợ Bợi thuộc thôn Đoài Hạ, xã N Ph, thành phố N B. Lợi dụng sự sơ hở bị cáo đã lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A10S màu đỏ có gắn ốp nhựa màu trắng bằng silicon trị giá 3.000.000 đồng của chị Vũ Thị N thì bị phát hiện bắt giữ.

Lời khai của bị cáo phù hợp khách quan với biên bản phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, bản ảnh, biên bản khám nghiệm hiện trường và lời khai người làm chứng. Do vậy khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Thị M lợi dụng sự sơ hở của người khác, lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy và một ốp nhựa của chị Vũ Thị N trị giá 3.000.000 đồng là phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị M là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng lại không chịu lao động chân chính, bản thân đã bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản, nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội là thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo mức hình phạt tù cách ly với xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo trở thành công dân tốt cho gia đình và phòng ngừa chung cho xã hội. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét:

Về tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 05/2015/HSST ngày 28/5/2015 của TAND huyện L Th tỉnh H B tuyên phạt bị cáo 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng và buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng ( hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính; còn hình phạt về án phí, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai đã nộp khoản tiền này nhưng lại không xuất trình được biên lai thu án phí của Cơ quan thi hành án.Theo biên bản xác minh ngày 03/12/2019 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N B ( BL 83) xác định cơ quan thi hành án dân sự huyện L Th tỉnh H B chưa nhận được bản án số 05/2015/HSST ngày 28/5/2015. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại mục 7 phần I Văn bản số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì “…Bộ luật hình sự không quy định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp hành hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì…”. Do vậy, trong vụ án này bị cáo Nguyễn Thị M chưa thi hành khoản tiền về án phí là chưa được đương nhiên xóa án mà lại phạm tội do cố ý là tình tiết “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi đang bị tạm giam, bị cáo đã tác động tới gia đình để bồi thường cho chị Vũ Thị N trị giá 01 màn hình điện thoại bị vỡ số tiền 1.300.000 đồng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo lại có trình độ học vấn rất thấp: bản thân không biết chữ, nên khả năng nhận thức hạn chế . Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn Th ( con trai bị cáo) khai: “ bị cáo có khi không thật tính, hay đi lang thang nhiều khi không biết đường về ”. Do vậy, áp dụng cho bị cáo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Xét thấy bị cáo không có việc làm, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [5] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A10S màu đỏ có ốp nhựa màu trắng bằng silicon, cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là chị Vũ Thị N; Đối với 01 màn hình máy điện thoại bị vỡ, hội đồng định giá tài sản UBND thành phố N B định giá giá trị là 1.040.000 đồng, anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1991; địa chỉ : thôn 7, xã Ph S, huyện Nh Q, tỉnh N B ( là con trai bị cáo Nguyễn Thị M) đã bồi thường cho chị Vũ Thị N 1.300.000 đồng, chị N đã nhận đủ tiền và không có đề nghị gì khác.Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn Th ( con trai bị cáo) cũng không có ý kiến gì về khoản tiền 1.300.000 đồng đã bồi thường cho bị hại. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét .

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc túi nilon màu đen kích thước (23x24) cm là phương tiện phạm tội và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 áo khoác gió màu đen kích thước (40x60) cm không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo;

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Xử phạt Nguyễn Thị M 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự :

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) túi nilon màu đen kích thước (23x24)cm.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị M: 01 (một) áo khoác gió màu đen, kích thước (40x60) cm.

( Chi tiết các vật chứng theo biên bản giao nhận ngày 09/3/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 13/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về