Bản án 32/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Văn N, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1997 tại xã Q, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Xóm Mới, xã Q, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Duy Đ và bà Trần Thị Hiển; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo tại ngoại, “có mặt”.

- Bị hại: Siêu thị Vina 24 Mart - Công ty TNHH GL COMMERCE, Người đại diện: Ông Nguyễn Trường Gi, sinh năm 1988 - Giám đốc Địa chỉ: Thôn Thiện Kế, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc Người đại diện “vắng mặt” Chị Nguyễn Thị Vân A, sinh ngày 06 tháng 9 năm 2001;

Địa chỉ: Thôn Gò Dẫu, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Duy Đ, sinh năm 1975;

Địa chỉ: Thôn Xóm Mới, xã Q, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn N làm nhân viên bán hàng tại Siêu thị Vina 24 Mart - Công ty TNHH GL COMMERCE, địa chỉ: Thôn Thiện Kế, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 01 tháng 12 năm 2019 đến ngày 06 tháng 12 năm 2019 thì nghỉ việc. Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên khoảng 00 giờ ngày 07 tháng 12 năm 2019 Nam lấy ở phòng trọ 01 đôi găng tay vải đeo vào hai tay; 01 mũ lưỡi trai đội vào đầu, rồi một mình đi bộ từ phòng trọ đến Siêu thị Vina 24 Mart. Do trước đó đã làm việc tại siêu thị nên Nam biết rõ cửa phụ đi vào bên trong siêu thị không khóa, Nam trèo qua hàng rào sắt phía bên trái của Siêu thị đi đến vị trí cửa phụ mở cửa đi vào bên trong, Nam đi đến quầy thu ngân, mở ngăn kéo bàn kê tại quầy lấy trộm số tiền 1.790.000 đồng, rồi mở quyển sổ giao ca của nhân viên bán hàng hàng ngày để tại tủ đựng hàng hóa sau quầy thu ngân, lấy trộm số tiền là 3.892.000 đồng, toàn bộ số tiền này là tiền của Công ty và tiền bán hàng của ngày 06 tháng 12 năm 2019 do chị Nguyễn Thị Vân A là nhân viên bán hàng của siêu thị để ở siêu thị chưa bàn giao cho siêu thị. Sau khi lấy trộm tiền, Nam đi vào phòng quản lý, mở cửa sổ trèo ra ngoài rồi đi về phòng trọ, trên đường đi về Nam vứt bỏ chiếc mũ lưỡi trai và đôi găng tay ở ven đường dân sinh cách siêu thị Vina 24 Mart khoảng 50m. Sau khi về phòng trọ N cất giấu toàn bộ số tiền trộm được vào trong 01 gối đầu của Nam rồi đi ngủ, đến khoảng 04 giờ cùng ngày, N dậy và lấy trong gối ra số tiền khoảng 1.200.000đồng đi ăn uống và chi tiêu cá nhân.

Cùng ngày 07 tháng 12 năm 2019, Cơ quan điều tra đã thu giữ số tiền 4.460.000đồng do Nam đã trộm cắp và thu giữ 01 đôi găng tay, 01 mũ lưỡi trai Nam sử dụng khi đi trộm cắp tài sản; 01 ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 117.000 đồng; 01 áo len vải dài tay, 01 khăn len quàng cổ màu nâu, 01 đôi dép tổ ong màu xanh, 01 đôi tất vải màu nâu.

Tại Cáo trạng số 44/CT-VKSBX ngày 02 tháng 4 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố Hoàng Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, tính chất nghiêm trọng của vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo N từ 07 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 14 đến 18 tháng.

Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã trình bày và xác nhận; bị cáo trình bày về việc trộm cắp tiền là đúng. Bị hại đã nhận lại toàn bộ số tiền bị mất nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về phần dân sự.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Duy Đ trình bày và xác nhận: Bị cáo trình bày về việc bị cáo tác động với ông nhờ ông bồi thường cho bị hại và ông đã dùng tiền của mình để bồi thường cho bị hại là đúng. Viện kiểm sát đã trả lại cho ông số tiền 4.577.000đồng mà Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo N. Số tiền còn lại là 1.105.000đồng mà ông đã bỏ ra bồi thường thay bị cáo N nhưng do bị cáo N là con trai ông nên ông cho bị cáo N và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho ông về phần dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng được thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên. Bị cáo N khai nhận: Khoảng 00 giờ ngày 07 tháng 12 năm 2019, tại Siêu thị Vina 24 Mart; địa chỉ: Xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của siêu thị và chị Nguyễn Thị Vân A là nhân viên bán hàng của siêu thị nên Hoàng Văn N đã vào siêu thị và trộm cắp số tiền 5.682.000 đồng. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; vật chứng vụ án đã thu giữ…; cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tạ i phiên tòa; từ đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Nam đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.

[3] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của siêu thị và chị Vân Anh đã trộm cắp số tiền 5.682.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo là người có nhận thức bình thường, có hiểu biết nhất định về pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng bản thân, bất chấp quy định của pháp luật đã trộm cắp tài sản của người khác mục đích để lấy tiền chi tiêu cho bản thân. Nhưng trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai là vi phạm pháp luật nên đã tác động với ông Định là bố để bị cáo nhờ ông Định mang tiền bồi thường cho bị hại để khắc phục hậu quả và bị cáo đã tham gia quân đội, đã suất ngũ về địa phương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Do bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy, cần tạo cho bị cáo một cơ hội, không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam mà cho bị cáo được hưởng án treo và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về dân sự: Bị cáo và ông Định là bố bị cáo đã bồi thường cho bị hại và bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết phần dân sự trong vụ án.

Ông Định đã bồi thường cho siêu thị và chị Nguyễn Thị Vân Asố tiền 5.682.000đồng; quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ được 4.577.000đồng là tiền do bị cáo trộm cắp nên đã trả lại cho ông Định. Sau khi nhận tiền ông Định không yêu cầu bị cáo N phải bồi thường trả ông số tiền còn lại là 1.105.000đồng, ông tự nguyện cho bị cáo N nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

Đối với số tài sản cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo, bị cáo chỉ xin lại 01 ví giả da màu nâu; Hội đồng xét xử thấy ví giả da của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Số tài sản còn lại gồm: 01 đôi găng tay màu trắng; 01 mũ lưỡi trai màu xanh; 01 áo len dài tay; 01 khăn len quàng cổ; 01 đôi dép lê tổ ong màu xanh; 01 đôi tất màu nâu, hiện không còn giá trị sử dụng nên bị cáo từ chối không nhận lại, do vậy cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn N 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Văn N cho Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tịch thu tiêu hủy 01 đôi găng tay màu trắng, 01 mũ lưỡi trai màu xanh, 01 áo len dài tay, 01 khăn len quàng cổ, 01 đôi dép lê tổ ong màu xanh, 01 đôi tất màu nâu.

Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn N 01 ví giả da màu nâu.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Bình Xuyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 03 tháng 4 năm 2020).

Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về