Bản án 32/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 32/2020/HS-PT NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2019/HSPT ngày 11/12/2019. Do có kháng cáo của các bị cáo,và của các bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 78/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 266/QĐXXPT ngày 03 tháng 02 năm 2020.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Thúy H, sinh ngày 01/6/1991 tại Đà Nẵng; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Nơi ĐKTT: thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: thành phố Đà Nẵng; Con ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Nguyễn Thị A; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Chồng là anh Trịnh Văn D; Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị hại kháng cáo:

1. Bà Trần Thị Hoàng T, sinh năm 1983; Trú tại : TP. Đà Nẵng. Có mặt.

2. Ông Huỳnh Tiến D, sinh năm 1978 ; Trú tại : TP. Đà Nẵng. Vắng mặt.

3. Bà Ngô Thị Thu T, sinh năm 1981; Trú tại : TP. Đà Nẵng. Có mặt

4. Bà Trương Thị E, sinh năm 1966; Trú tại: TP. Đà Nẵng. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thúy H: Bà Lê Thị Hồng T, Luật sư văn phòng luật sư Lê Thị Hồng T, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong cuối tháng 01/2019, do nợ nần nên Nguyễn Thị Thúy H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác, H sử dụng bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE722181 thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Ngọc T, là chị ruột của H (sinh năm 1982; HKTT: thành phố Đà Nẵng) rao bán với giá rẻ. Để tạo sự tin tưởng, H gửi bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của lô đất trên cho người có nhu cầu mua và nói dối H đã mua lô đất này từ chị T, nay chuyển nhượng lại để hưởng chênh lệch. Bằng thủ đoạn này, H đã chiếm đoạt tiền đặt cọc của nhiều người, cụ thể như sau:

1. Chiếm đoạt của chị Trần Thị Hoàng T (sinh năm 1983; HKTT: Tổ 57, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng) số tiền 350.000.000 đồng.

Ngày 06/3/2019, Nguyễn Thị Thúy H thông qua người môi giới là Nguyễn Quế C (sinh năm 1992, trú số 141 D, phường A) đã thỏa thuận chuyện nhượng lô đất số 506, tờ bản đồ số 5 tại địa chỉ tổ 42 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng, có giấy chứng nhận số CE722181 (đứng tên chị Nguyễn Thị Ngọc T) cho chị Trần Thị Hoàng T với giá 1.650.000.000 đ (một tỷ sáu trăm năm mươi triệu đồng), chị T đặt cọc cho H số tiền 350.000.000 đ (ba trăm năm mươi triệu đồng) và thỏa thuận đến ngày 27/3/2019 sẽ ra công chứng để làm thủ tục chuyển nhượng lô đất trên. Đến hẹn, H nói chị T cho chuyển sang ngày 28/3/2019 nhưng H vẫn không thực hiện lời hứa. Sau đó, chị T nhiều lần đòi lại tiền đặt cọc, H chỉ trả lại cho chị T 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). Số tiền chiếm đoạt còn lại, H khai dùng trả tiền môi giới cho chị Chi 20.000.000 đồng, trả nợ và tiêu xài cá nhân hết.

2. Chiếm đoạt của anh Huỳnh Tiền D (sinh năm 1978; HKTT: quận S, thành phố Đà Nẵng) và chị Ngô Thị Thu T (sinh năm 1981; trú tại số quận S, thành phố Đà Nẵng) số tiền 200.000.000 đồng.

Với thủ đoạn như trên, ngày 04/4/2019, Nguyễn Thị Thúy H đã thỏa thuận chuyển nhượng lô đất tại địa chỉ tổ 42, quận S, thành phố Đà Nẵng, có giấy chứng nhận số CE722181 (đứng tên chị Nguyễn Thị Ngọc T) cho anh Huỳnh Tiền D và chị Ngô Thị Thu T với giấy 1.890.000.000đ (một tỷ tám trăm chín mươi triệu đồng), anh D đặt cọc cho H số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) và H hẹn ngày 19/4/2019 ra công chứng để làm thủ tục chuyển nhượng lô đất trên cho anh D, chị T.

Đến hẹn, H tiếp tục hẹn anh D đến ngày 20/4/2019 nhưng H không thực hiện lời hứa. Sau đó, H chỉ trả lại cho anh D, chị T số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). Số tiền chiếm đoạt còn lại, H sử dụng trả nợ và tiêu xài cá nhân hết.

3. Chiếm đoạt của chị Trương Thị E (sinh năm 1966; HKTT: Tổ 01, phường Phước Mỹ, quận S, thành phố Đà Nẵng) số tiền 100.000.000 đồng.

ơng tự, ngày 10/4/2019, Nguyễn Thị Thúy H thông qua môi giới là anh Hồ Văn T (H khai không biết lai lịch của anh T. Qua mạng xã hội, anh T biết số điện thoại của H nên gọi hỏi H và giới thiệu cho chị E mua đất của H) thỏa thuận chuyển nhượng lô đất tại địa chỉ tổ 42, phường H, quận S, thành phố Đà Nẵng, có giấy chứng nhận số CE722181 (đứng tên chị Nguyễn Thị Ngọc T) cho chị Trương Thị E với giá 1.935.000.000đ (một tỷ chín trăm ba mươi lăm triệu đồng), chị E đặt cọc cho H số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) và thỏa thuận ngày 20/4/2019 ra công chứng làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định. Đến hẹn, H không thực hiện được lời hứa của mình. Số tiền chiếm đoạt, H sử dụng trả nợ và tiêu xài cá nhân hết.

Với nội dung trên tại bản án hình sự sơ thẩm số 78/2019/HSST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thúy H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Nguyễn Thị Thúy H 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra bản án còn quyết định về dân sự, quyền kháng cáo của bị cáo , bị hại, người liên quan.

Ngày 19 tháng 11 năm 2019 bị cáo H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 20 tháng 11 năm 2019 các bị hại là bà Trần Thị Hoàng T, ông Huỳnh Tiến D, bà Ngô Thị Thu T, bà Trương Thị E, kháng cáo đề nghị xử phạt nghiêm minh bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tố tụng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thúy H có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo, bị hại Huỳnh Tiến D vắng mặt. Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị hại là bà Trần Thị Hoàng T, bà Ngô Thị Thu T, bà Trương Thị E vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại giữ nguyên bản án sơ thẩm. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, ý kiến người bào chữa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[2] Trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2019, do túng quẫn nợ nần, Nguyễn Thị Thúy H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác nên đã sử dụng bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CE722181 (đứng tên chị Nguyễn Thị Ngọc T, là chị gái của H) và nói dối với nhiều người lô đất này H mua lại của chị T và muốn bán lại để chiếm đoạt tài sản của người khác. Bằng thủ đoạn này, H đã lừa chiếm đoạt tiền của nhiều người bị hại với tổng số tiền 650.000.000 đồng. Trong đó, chiếm đoạt của chị Trần Thị Hoàng T 350.000.000 đồng, chị Ngô Thị Thu T và anh Huỳnh Tiến D 200.000.000 đồng, chị Huỳnh Thị E 100.000.000 đồng. Số tiền chiếm đoạt H dùng để trả nợ và tiêu xài cá nhân hết.

[3] Với hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị Thúy H, Bản án sơ thẩm đã kết án bị cáo về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét đơn kháng cáo của bị cáo và của những người bị hại; Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ của hành vi phạm tội, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là thỏa đáng, đúng pháp luật. Do vậy đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại không được xem xét chấp nhận.

[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thúy H, và đơn kháng cáo của các bị hại Trần Thị Hoàng T, Huỳnh Tiến D, Ngô Thị Thu T, Trương Thị E. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 78/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Nguyễn Thị Thúy H 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Thúy H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về