Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn giữa chị H, anh Đ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 32/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H, ANH Đ

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 257/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 42/2020/QĐST- HNGĐ, ngày 3 tháng 9 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 17/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994. (có mặt) HKTT: Khu 3, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Ngô Thành Đ, sinh năm 1995.   (vắng mặt) STQ: Thôn Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai của phía chị H trong hồ sơ thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Ngô Thành Đ vào tháng 11/2017, kết hôn do hai bên tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi làm lễ cưới vợ chồng về chung sống cùng với gia đình anh Đ, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó cũng đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn.

Theo phía chị H trình bày: Sau khi lấy nhau thì chị vẫn đi làm công nhân tại Khu công nghiệp Quế Võ 1, anh Đ thì lúc đi làm, lúc không, công việc làm không ổn định. Cuộc sống vợ chồng cũng cứ bình thường như thế, cũng không có điều tiếng gì với nhau mấy. Sau này dần dần vợ chồng bắt đầu có mâu thuẫn với nhau mà nguyên nhân là do anh Đ mải chơi, không quan tâm gì đến chị. Anh Đ sinh ra cờ bạc, chơi bời dẫn đến vợ chồng hay cãi nhau, vợ chồng mất tình cảm với nhau. Chị có góp ý thì anh Đ lại quay ra cáu gắt, nói năng khó chịu với chị. Anh Đ cũng không chịu làm ăn gì chỉ rong chơi nên chị cũng sinh ra chán nản. Kể từ tháng 7/2020 đến nay chị không thể chịu đựng được anh Đ, thấy vợ chồng không có mục đích sống nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ để ở, vợ chồng sống ly thân từ đó. Nay chị thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống được với nhau nữa, vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Chị cũng không thấy tương lai trong mối quan hệ hôn nhân với anh Đ nên chị vẫn đề nghị Tòa án giải quyết để được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng cũng không có tài sản chung, không có công nợ chung nên chị H không cũng yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Ngô Thành Đ: Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Đ đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn nhưng anh Đ không chấp hành. Tòa án đã tiến hành xác minh nơi cư trú hiện nay của anh Đ thì xác định được anh Đ vẫn có hộ khẩu thường trú và hiện tại vẫn đang cư trú tại thôn Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ. Tòa án đã tiến hành đến gia đình gặp anh Đ để lấy lời khai nhưng anh Đ không khai, không làm việc với Tòa án.

Qua xác minh mâu thuẫn vợ chồng từ phía địa phương nơi anh Đ cư trú thì thấy, anh Đ thuộc đối tượng chơi bời cờ bạc, game, tụ tập bạn bè rượu chè có tiếng tại địa phương. Ý kiến của địa phương đề nghị Tòa án cố gắng hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ, trường hợp không hòa giải được thì đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H ly hôn để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ.

Tại phiên tòa phía chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình, không thay đổi bổ sung gì. Chị trình bày vợ chồng đã không còn tình cảm với nhau, không thể tiếp tục chung sống được nữa. Anh Đ còn khó có khả năng có con mặc dù vợ chồng cũng đã chạy chữa nhưng không có kết quả. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết để chị được ly hôn anh Đ. Đối với anh Đ vắng mặt nên không có lời trình bày tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ tiến hành tố tụng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về vụ án: Về tố tụng, quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, những người tiến hành tố tụng khác và phía nguyên đơn trong vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, không có vi phạm phải kiến nghị khắc phục. Đối với bị đơn đã được Tòa án tiến hành thủ tục tố tụng đầy đủ, đảm bảo đúng quy định nhưng anh Đ vẫn vắng mặt tại các buổi làm việc, vắng mặt tại phiên tòa nên việc xét xử vắng mặt anh Đ là có căn cứ. Về giải quyết vụ án, thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống hạnh phúc được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H. Về con chung và tài sản chung không có và đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Từ nội dung trên:

[1]. Về tố tụng: Anh Ngô Thành Đ hiện vẫn đang cư trú tại thôn Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ. Tòa án đã tiến hành đến nhà gặp anh Đ để lấy lời khai, giao văn bản tố tụng nhưng anh Đ không khai, không nhận nếu có nhận văn bản tố tụng thì cũng không ký biên bản giao nhận. Sự việc có sự chứng kiến của cán bộ địa phương. Tại phiên tòa anh Đ vẫn vắng mặt lần thứ 2, do vậy căn cứ vào các Điều 207, 227, 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ là có căn cứ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung: Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Ngô Thành Đ vào tháng 11/2017, kết hôn do tự nguyện và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng với gia đình anh Đ, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó cũng đã nảy sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn qua lời trình bày của chị H thì xác định được mâu thuẫn vợ chồng chủ yếu là do anh Đ sống buông thả, chơi bời tụ tập bạn bè rượu chè, mải chơi game, chơi cờ bạc không quan tâm cuộc sống gia đình, không quan tâm vợ nên đã làm cho chị H mất niềm tin vào anh Đ. Mâu thuẫn vợ chồng càng ngày càng trở lên trầm trọng, tình cảm vợ chồng đã hết. Thấy rằng vợ chồng mâu thuẫn với nhau đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không Đ được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh Ngô Thành Đ.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung.

Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Chị H trình bày không có và cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Ngô Thành Đ.

2. Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Không xem xét giải quyết do chị H không yêu cầu.

* Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn mà chị H đã nộp theo biên lai thu số 0002338 ngày 18/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống Đ bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn giữa chị H, anh Đ

Số hiệu:32/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về