Bản án 32/2020/DS-ST ngày 27/10/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 32/2020/DS-ST NGÀY 27/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 27 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 79/2020/TLST–DS ngày 22 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2020/QĐXXST - DS ngày 21 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SGTT.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức Thạch D – Tổng Giám đốc.

Đa chỉ: …, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Võ Lê Việt T – Trưởng Phòng giao dịch thị xã Ngã Năm - Chi nhánh Sóc Trăng (có mặt).

Đa chỉ: …, khóm 1, phường 1, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Bà Trần Ngọc T, sinh năm 1969 (vắng mặt tại phiên tòa).

Đa chỉ: ấp Tân Chánh C, xã Tân Long, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lập ngày 08/6/2020 và trong quá trình xét xử, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng TMCP SGTT chi nhánh Sóc Trăng – Phòng giao dịch Ngã Năm có cho bà Trần Ngọc T vay số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) theo giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số LD1901100926 ngày 11/01/2019, nhận nợ cùng ngày. Nội dung thỏa thuận thời hạn vay là 60 tháng, phương thức thanh toán là trả nợ gốc và nợ lãi định kỳ hàng tháng, tổng cộng 60 kỳ với số tiền vốn và lãi là 290.000.000 đồng (mỗi kỳ 4.833.000 đồng, riêng kỳ cuối trả 4.853.000 đồng); lãi suất là 9%/năm, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất cho vay (lãi suất sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng 01 lần); mục đích vay là tiêu dùng. Bà T đã vi phạm hợp đồng, để phát sinh nợ quá hạn kể từ ngày 08/6/2020, tính đến ngày 27/10/2020 bà T phải thanh toán cho Ngân hàng với tổng số tiền là 138.210.503 đồng, trong đó vốn gốc 123.341.000 đồng, lãi trong hạn 14.847.005 đồng, lãi quá hạn 22.498 đồng. Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán nợ nhưng bà không thực hiện.

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Ngọc T trả cho Ngân hàng tổng số tiền vốn gốc và tiền lãi tính đến ngày 27/10/2020 là 138.210.503 đồng và tiền lãi phát sinh kể từ ngày 27/10/2020 cho đến khi trả dứt nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, các bị đơn bà Trần Ngọc T đều vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà vẫn không có văn bản trình bày ý kiến cung cấp cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa:

[1]. Bị đơn bà Trần Ngọc T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bà.

Xét về nội dung vụ án.

[2]. Qua xem xét giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số LD1901100926 ngày 11/01/2019, thể hiện bà Trần Ngọc T thỏa thuận vay và nhận của Ngân hàng TMCP SGTT chi nhánh Sóc Trăng – Phòng giao dịch Ngã Năm số tiền 200.000.000 đồng; thỏa thuận thời hạn vay là 60 tháng, phương thức thanh toán là trả nợ gốc và nợ lãi định kỳ hàng tháng, tổng cộng 60 kỳ với số tiền vốn và lãi là 290.000.000 đồng (mỗi kỳ 4.833.000 đồng, riêng kỳ cuối trả 4.853.000 đồng); lãi suất là 9%/năm, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất cho vay (lãi suất sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng 01 lần); mục đích vay là tiêu dùng.

[3]. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày hôm nay bà Trần Ngọc T đã thanh toán cho cho Ngân hàng số tiền vốn 76.659.000 đồng và đóng lãi 16.500.000 đồng, còn nợ lại số tiền vốn 123.341.000 đồng chưa thanh toán theo như kỳ hạn đã ấn định. Vì phía bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả vốn và lãi nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu thanh toán toàn bộ số nợ.

[4]. Xét thấy, bà T đã nhận toàn bộ số tiền vốn vay 200.000.000 đồng theo giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số LD1901100926 ngày 11/01/2019, nhưng bà lại không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và tiền lãi cho Ngân hàng theo như các bên đã thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng. Vì bà T đã vi phạm hợp đồng, nên việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà thanh toán toàn bộ số tiền vốn gốc và tiền lãi là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Số tiền bà T còn nợ Ngân hàng tính đến ngày 27/10/2020 (ngày xét xử) là: tiền vốn gốc là 123.341.000 đồng và tiền lãi trong hạn 14.847.005 đồng, lãi quá hạn 22.498 đồng.

[5]. Về án phí: Bà T phải chịu án phí theo quy định tại khon 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 và khoản 5 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP SGTT đối với bị đơn bà Trần Ngọc T:

Buộc bà Trần Ngọc T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền vốn gốc là 123.341.000 đồng (một trăm hai mươi ba triệu, ba trăm bốn mươi mốt ngàn đồng) và tiền lãi tính đến ngày 27/10/2020 là lãi trong hạn 14.847.005 đồng (mười bốn triệu, tám trăm bốn mươi bảy ngàn, lẻ năm đồng), lãi quá hạn 22.498 đồng (hai mươi hai ngàn, bốn trăm chín mươi tám đồng).

Kể từ ngày 28/10/2020 cho đến khi bà Trần Ngọc T thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP SGTT, thì hàng tháng bà T còn phải chịu tiền lãi phát sinh trên số vốn gốc còn nợ theo mức lãi suất các bên đã thỏa thuận tại giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số LD1901100926 ngày 11/01/2019.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trần Ngọc T phải chịu án phí với số tiền là 6.910.500 đồng (sáu triệu, chín trăm mười ngàn, năm trăm đồng), bà T có nghĩa vụ nộp số tiền này.

Ngân hàng TMCP SGTT không phải chịu án phí, được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.280.000 đồng (ba triệu, hai trăm tám mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003522 ngày 22/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn nêu trên được tính kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày niêm yết hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/DS-ST ngày 27/10/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:32/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về