Bản án 32/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 32/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành - tỉnh Nghệ An, Toà án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2019/HSST, ngày 14 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Trần Hữu D (tên gọi khác: không) - Sinh ngày 19/5/1969, tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 6, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: làm ruộng, dân tộc: kinh, tôn giáo: không, trình độ văn hoá: lớp 12/12, con ông Trần Hữu A (Liệt sỹ kháng chiến chống Mỹ cứu nước); con bà Đặng Thị S, sinh năm 1945. Anh chị em ruột có 3 người, bị cáo con thứ nhất trong gia đình;Vợ: Đặng Thị X - sinh năm 1975, có ba con, con đầu 21 tuổi, con út 14 tuổi.

Tiền án: Tại bản án số 06/2013/HSST, ngày 05/3/2013 Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong bản án. Tại bản án số 132/2016/HSST ngày 16/11/2016 Tòa án nhân dân huyện D xử phạt bị cáo 12 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong bản án.

Nhân Thân: Ngày 18/4/2003, tại bản án số 43/HSPT, ngày 08/4/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt bị cáo18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 26/7/2007 Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Dương xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 06/3/2016, Ban công an xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 18/9/2009 bị Ủy ban nhân dân quận M, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh để cai nghiện ma túy.

Danh bản - Chỉ bản số: 069, Công an huyện Yên Thành lập ngày 15/01/2019.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/01/2019, sau đó ngày 23/01/2019 bị tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Nghệ An cho đến nay. (Bị cáo có mặt). 

- Người bị hại: Anh Nguyễn Văn T - sinh năm 1980,

Trú tại: Xóm P, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:Anh Đặng Trọng L - sinh năm 1984,

Trú tại: Xóm 6, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt).

- Người làm chứng: Anh Phan Văn H - sinh năm 1964,

Trú tại: Xóm P, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 14/01/2019, Đặng Trọng L, sinh năm 1984, trú tại xóm 6, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An gọi điện thoại rủ Trần Hữu D đi trộm cắp tài sản, Trần Hữu D đồng ý. Sau đó, D điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại MIO ULTIMO màu đen biển kiểm soát 61N-536... (Theo lời khai của bị cáo, chiếc xe này là của chị Đặng Thị X là vợ của bị cáo D, hiện chị X đang đi lao động tại Đài Loan) đi đón Đặng Trọng L. Sau khi D gặp L, hai người bàn nhau lên huyện Y để trộm cắp tài sản. Khi cả hai đi đến địa phận xóm P, xã V, huyện Y. D và L phát hiện nhà ở của anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1980 ở cạnh đường không có người ở nhà. Trần Hữu D dừng xe và đứng ngoài cảnh giới, còn Đặng Trọng L trèo qua tường xây vào nhà anh T. L đến khu vực chuồng gà, lấy một chiếc bì xác rắn màu xanh và bắt 03 con gà bỏ vào bì xác rắn. Lúc này anh Nguyễn Văn T đi làm về phát hiện và tri hô bắt trộm. L cầm bì xác rắn chứa gà vượt qua tường rào ra ngoài để cùng D chạy trốn. Do không nổ được xe máy, cả hai đẩy xe máy chạy bộ. D, L chạy được khoảng 100m thì bị anh T và một số người khác bắt giữ giao cho Ban Công an xã V xử lý. Công an xã đã thu giữ vật chứng và lập biên bản phạm tội quả tang.

- Vật chứng thu giữ là 03 con gà trống, lông màu vàng, 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại MIO ULTIO màu đen, biển kiểm soát 61N-536...., đã qua sử dụng do chiếc xe máy chưa xác định được chủ sở hữu, cơ quan điều tra đang tạm giữ để điều tra xác minh.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu định giá tài sản. Tại Kết luận định giá tài sản số 04/KL-HDĐGTS, ngày 18/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện Y kết luận: 03 con gà trống, lông màu vàng, còn sống, trọng lượng 7 kg, tại thời điểm định giá có giá trị 700.000 đồng (bảy trăm ngàn đồng).

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành, Trần Hữu D, Đặng Trọng L đã khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên của mình. Trần Hữu D bị khởi tố bị can về tội trộm cắp tài sản. Đặng Trọng L bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyệnYên Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, khoản 1 Điều 52; điểm h, s, x khoản 1, Điều 51; Điều 100 của Bộ luật hình sự, xử phạt đối với Trần Hữu D từ 7 đến 8 tháng cải tạo không giam giữ.

Về chiếc xe máy tạm giữ của Trần Hữu D nhãn hiệu YAMAHA loại MIO ULTIO màu đen biển kiểm soát 61N-536... cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu cho nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh để sử lý sau.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa công khai, bị cáo Trần Hữu D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Trên cơ sở lời khai nhận của bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu giữ được và kết luận giám định là hoàn toàn phù hợp với nhau. Cơ quan điều tra, điều tra viên, kiểm sát viên đã tiến hành tố tụng điều tra như lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; ra các quyết định; lấy lời khai, hỏi cung bị can; trưng cầu định giá, kết luận định giá theo đúng các quy định của pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản giá trị chỉ 700.000 đồng, tuy nhiên, ngày 16/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 12 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận Trần Hữu D phạm tội “Trộm cắp tài sản” đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành đã truy tố.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo là người có nhân thân xấu, là người mắc nghiện ma túy (như bị cáo khai nhận); đã nhiều lần bị xử lý về hình sự. Ngày 05/3/2013 bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xử phạt 30 tháng tù, sau đó ngày 16/11/2016, bị tòa án nhân dân huyện D xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Như vậy lần phạm tội này của bị cáo được coi là tái phạm. Mặc dù tại phiên tòa kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ với bị cáo nhưng hội đồng xét xử xét thấy đề nghị đó là không thỏa đáng, bởi bị cáo có nhân thân xấu, vì vậy nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, bố bị cáo là Liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cần coi đó là những tình tiết giảm nhẹ như quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, như đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Trong vụ trộm cắp tài sản này có hai người tham gia, ngoài bị cáo còn có Đặng Trọng L, sinh năm1984, địa chỉ cư trú xóm 6, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Do giá trị tài sản mà L cùng bị cáo Trần Hữu D trộm cắp có giá trị dưới mức phải chịu trách nhiệm hình sự cho nên cơ quan điều tra đã xử lý hành chính đối với Đặng Trọng L là hoàn toàn chính xác.

[4] Vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 03 con gà trống, lông màu vàng, xác định là tài sản của anh Nguyễn Văn T ở xóm P, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An, cơ quan điều tra đã giao trả cho gia đình người bị hại, người bị hại không có yêu cầu gì thêm.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu nhãn hiệu YAMAHA loại MIO ULTIO, màu đen, biển kiểm soát 61N-536...., tạm giữ của Trần Hữu D, hiện tại cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu chiếc máy, cơ quan điều tra đang tạm giữ để điều tra, xác minh và xử lý khi có kết quả.

[5] Án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Xử phạt Trần Hữu D 6 (sáu) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 14/01/2019)

2. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo Trần Hữu D phải nộp: 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về