Bản án 32/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 32/2019/HSST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân quận BT xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 31/2019/HSST ngày 28/02/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: NĐL; sinh năm: 1971 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 194/50/16 BĐ, Phường A, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông NĐC và bà NTH. Tiền án; tiền sự: Không có. Tạm giam: 15/11/2018 (Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 20 ngày 14/11/2018, tổ tuần tra Công an Phường A, quận BT tuần tra đến trước số 189 PVT thì phát hiện NĐL đang đậu xe gắn máy AirBlade, biển số 59VI-402.33 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra Công an phát hiện trên baga xe có 01 túi máu đen của L, bên trong ngăn ngoài của túi nơi để viết có 01 gói nilon bên trong có chứa tinh thể rắn không màu và 01 gói nylon bên trong có 01 viên nén tròn màu hồng. Công an Phường A lập biên bản phạm tội quả tang chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận BT lập hồ sơ xử lý. (BL 19-20)

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra NĐL khai nhận hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau: số ma túy Công an kiểm tra thu giữ là do L được khách cho khi làm việc tại quán cà phê (L làm nghề DJ chỉnh nhạc tại các quán cà phê). Gói nylon chứa ma túy “đá” là do một người khách nam (không biết lai lịch, địa chỉ) cho L vào khoảng 01 tháng trước khi bị bắt tại quán cà phê trên đường Trần Khắc Chân, Quận 1 (L không nhớ rõ tên, địa chỉ quán). Còn viên thuốc lắc cũng do một người khách (không biết lai lịch, địa chỉ) cho L vào khoảng hơn 02 tháng trước khi bị bắt tại quán cà phê ở Quận 1 (L không nhớ rõ tên và địa chỉ quán). Bản thân L có sử dụng ma túy nên khi khách cho ma túy thì nhận và cất giấu vào trong túi xách màu đen để sử dụng dần. Vào khoảng 22 giờ 20 ngày 14/11/2018, L đang đậu xe gắn máy biển số 59V1-402.33 tại trước số nhà 189 Phan Văn Trị, Phường 11, quận BT để nghe điện thoại thì tổ tuần tra Công an Phường 11, yêu cầu kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra Công an phát hiện thu giữ tại baga xe số ma túy trên.

Căn cứ bản kết luận giám định số 1852/KLGĐ-H ngày 20/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu mi cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,0218g (một phẩy không hai một tám gam), loại Methamphetamine.

01 viên nén hình tròn màu hồng được ký hiệu mẫu m2 cần giám định có khối lượng 0,3988g (không phẩy ba chín tám tám gam), không tìm thấy ma túy (BL.24)

Vật chứng:

- 01 gói nylon bên trong có chứa chất tinh thể rắn không màu (Qua giám định tinh thể rắn không màu có khối lượng 1,0218g là ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamine).

- 01 gói nylon bên trong có 01 viên nén tròn màu hồng (đã được sử dụng hết).

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, Imei: 355929104132715913.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng, Imei: 013847004823760.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng, số Imei: 355692079465034.

- 02 nỏ thuỷ tinh đã qua sử dụng.

- 01 chiếc túi màu đen ở phía trước có hiệu Miti.

- 01 giấy phép lái xe mang tên NĐL.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, biển số 59V1-402.33; số khung: RLHJF2705BY379120; số máy: JF27E-1231125. Qua xác minh, xe trên do bà NTTU đứng tên chủ sở hữu, bà U đã bán xe cho một người (không nhớ rõ lai lịch) từ năm 2013 (BL. 56, 57) . L khai mượn chiếc xe trên của một người bạn tên LTTT, chị T khai nhận mua xe máy trên thông qua môi giới (có giấy tờ kèm theo) từ năm 2016, chưa làm thủ tục sang tên. Vào khoảng tháng 10/2018, L hỏi chị T mượn xe để làm phương tiện đi lại, vì quen biết lâu năm nên chị T đồng ý. Việc L tàng trữ ma tuý chị T không biết (BL. 64, 65).

Tại Cáo trạng số 35/CTr-VKSBTh ngày 25 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận BT đã truy tố bị cáo NĐL về tội “Tàng trữ hái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo NĐL khai nhận hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì,bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận BT thực hành quyền công tố trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với vụ án, sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức án đối với bị cáo NĐL từ 01 năm đến 02 năm tù giam; các vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

+ Về thủ tục t tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng:

Cơ quan điều tra Công an quận BT, Viện kiểm sát nhân dân quận BT truy tố, ban hành các thủ tục tố tụng đối với bị cáo NĐL là đúng quy định theo thủ tục, trình tự của pháp luật Tố tụng hình sự.

+ Về hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo:

HĐXX nhận thấy, bị cáo NĐL là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bằng ý thức của mình bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, tuy nhiên nhằm thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo đã cố ý tàng trữ ma túy, khối lượng 1.0218g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Mục đích bị cáo cất giấu để sử dụng cho bản thân.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự trị an tại địa phương. Hành vi này đã tiếp tay cho các tội phạm khác về ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách phòng chống tội phạm về ma túy, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 294 của Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét bị cáo L, tại phiên tòa cũng như cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân là lao động chính trong gia đình vì vậy Hội đồng xét xử cân nhắc giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Về vật chứng:

+ Đối với 01 gói niêm phong ghi số 1852/2018 - Bình Thạnh có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra NVN, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu (m1) có khối lượng 0,8396g và viên nén màu hồng đã được sử dụng hết và 01 túi màu đen và 01 nỏ thủy tinh. Xét thấy không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tu tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 giấy phép lái xe mang tên NĐL và 03 điện thoại di động của bị cáo. Xét thấy đây là giấy tờ, tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

+ Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, biển số 59V1-402.33; số khung: RLHJF2705BY379120; số máy: JF27E-123125 mà L mượn của chị Trinh để làm phương tiện đi lại. Cơ quan điều tra đã trả cho chị Trinh, là chủ sở hữu hợp pháp, việc trả là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xét.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo NĐL phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo NĐL 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 14/11/2018.

2/ Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 túi màu đen và 01 nỏ thủy tinh.

+ 01 gói niêm phong ghi số 1852/2018 - Bình Thạnh có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra NVN, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định:Tinh thể không màu (m1) có khối lượng 0,8396g và viên nén màu hồng đã được sử dụng hết.

- Trả lại cho bị cáo: 01 giấy phép lái xe mang tên NĐL; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, Imei: 355929104132715913; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng, Imei: 013847004823760; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng, số Imei: 355692079465034.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/02/2019 giữa Công an quận BT và Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thạnh)

3/ Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về