Bản án 32/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 02/10/2019 đối với bị cáo:

1. Trần Chiến H, (tên gọi khác: Tề Th), sinh ngày 25/9/1996, tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Trú tại: Ấp H, xã L, huyện C, tỉnh T; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 và bà Trần Thị Lệ H, sinh năm 1971; Bị cáo là con một trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ con và chưa có hoạt động gì về chính trị - xã hội; Tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 31/5/2013, Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xử 03 năm tù về tội cướp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 133 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/2015, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 02/01/2014;

Tiền sự: 01 lần, ngày 19/4/2019 Ủy ban nhân dân xã Long Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 3 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 19/6/2019 đến ngày 25/6/2019, chuyển tạm giam ngày 25/6/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cai Lậy. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Thị Ngọc H, sinh ngày: 26/8/1998, tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Trú tại: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1966 và bà Phan Thị Ngọc H (đã chết); Anh, chị, em ruột có hai người, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; Bị cáo chưa có chồng con và chưa có hoạt động gì về chính trị - xã hội; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 19/6/2019 đến ngày 25/6/2019, chuyển tạm giam ngày 25/6/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cai Lậy. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Phan Ngọc A, sinh năm 1989 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh T.

2. Nguyễn Duy Kh, sinh năm 1999 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh T

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 18/6/2019, tại phòng số 3 nhà nghỉ Thành Nhân, địa chỉ: ấp B, xã T, huyện C, tỉnh T, Công an huyện Cai Lậy bắt quả tang Trần Chiến H, sinh ngày 25/9/1996, trú tại: Ấp H, xã L, huyện C, tỉnh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong 03 bịch ny lon, được hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng để trong túi quần bên phải phía trước và Huỳnh Thị Ngọc H, sinh ngày 26/8/1998, trú tại: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong 02 bịch ny lon được hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng để trong hộp kẹo singum màu xanh hiệu Doublemint cất trong túi xách của Hu.

Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H đều là người nghiện trái phép chất ma túy. Ngày 13/6/2019, Hu liên lạc với người phụ nữ không rõ họ tên, địa chỉ mua hai bịch ma túy với giá 300.000 đồng giao nhận tại xã Tam Bình, huyện Cai Lậy, sau khi mua ma túy về Hu đem cất giấu trong hộp kẹo singum màu xanh hiệu Doublemint để trong túi xách. Ngày 18/6/2019, H liên hệ và gặp người tên P để mua 03 bịch ma túy với giá 400.000 đồng tại thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Sau đó, H đến nhà nghỉ Thành Nhân do Hu đã thuê trước để cùng sử dụng trái phép chất ma túy thì bị công an huyện Cai Lậy phát hiện bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm: 03 bịch ny long được hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 01; hai bịch ny long màu trắng hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 02; số tiền Việt Nam 2.620.000 đồng; một điện thoại di động hiệu FPT màu xanh đen; 05 cái nỏ thủy tinh, hai cây kéo (một cái màu xanh đỏ, một cái màu trắng), hai cái hột quẹt gas (một cái màu trắng, một cái màu xanh), một hộp màu xanh có dòng chữ Doublemint; 37 đoạn thủy tinh; hai đoạn ống nhựa màu trắng; một bộ bình tự chế; một bộ bình khè; một điện thoại di động hiệu vivo màu trắng.

Kết luận giám định số 110/KLGĐ-PC09 ngày 21/6/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận, các mẫu tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon màu trắng được hàn kín có viền xanh một đầu và trong 02 (hai) gói nylon màu trắng được hàn kín để trong 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín có viền xanh một đầu, sau đó để trong một bì thư màu trắng được niêm phong (ký hiệu gói số 1) gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,5472 gam, loại: Methamphetamine; các mẫu tinh thể màu trắng trong 02 (hai) gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong một bì thư màu trắng được niêm phong (ký hiệu gói số 2) gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,2783 gam, loại: Methamphetamine.

Trần Chiến H đã mượn chiếc xe mô tô hiệu Dream không rõ biển số của người tên Giang địa chỉ ở xã Tam Bình, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang để đi mua ma túy, nhưng qua xác minh tại địa phương chưa xác định được người tên Giang cụ thể là ai, nên chưa tiến hành làm việc được.

Cơ quan điều tra làm rõ số tiền thu được của bị cáo Trần Chiến H là 2.620.000 đồng, đây là tiền cá nhân của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội nên đã trao trả lại cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra, Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 17/9/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang truy tố Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Trong phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đã đưa ra những chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt Trần Chiến H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam, Huỳnh Thị Ngọc H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 bịch ny long được hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 01; hai bịch ny long màu trắng hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 02; 05 cái nỏ thủy tinh, hai cây kéo (một cái màu xanh đỏ, một cái màu trắng), hai cái hột quẹt gas (một cái màu trắng, một cái màu xanh), một hộp màu xanh có dòng chữ Doublemint; 37 đoạn thủy tinh; hai đoạn ống nhựa màu trắng; một bộ bình tự chế; một bộ bình khè. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu vivo màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu FPT màu xanh đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cai Lậy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm cả hai bị cáo Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/6/2019, tại phòng số 3 nhà nghỉ Thành Nhân, ở ấp B, xã T, huyện C, tỉnh T, Trần Chiến H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, có tổng khối lượng là 0,5472 gam, loại Methamphetamine. Huỳnh Thị Ngọc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, có tổng khối lượng là 0,2783 gam, loại Methamphetamine.

[3] Các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, trọng lượng thuộc điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, tất cả các loại ma túy đều là chất gây nghiện, gây tác hại rất nghiêm trọng về thể chất và tinh thần cho người sử dụng. Ma túy cũng là nguyên nhân gây ra nhiều tội phạm như trộm cắp, cướp giật…, gây mất an ninh trật tự xã hội.

Xét về nhân thân, bị cáo H có nhân thân xấu: Ngày 31/5/2013, Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xử 03 năm tù về tội cướp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 133 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, bị cáo đã được xóa án tích. Đến ngày 19/4/2019 bị Ủy ban nhân dân xã Long Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 3 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Lượng ma túy tàng trữ của Trần Chiến H nhiều hơn so với lượng ma túy của Huỳnh Thị Ngọc H, cho nên mức hình phạt của Trần Chiến H phải cao hơn bị cáo Huỳnh Thị Ngọc H.

Lời khai nhận trên của hai bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các tài liệu, chứng cứ và vật chứng có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy truy tố bị cáo Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, đối với hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải xử phạt nghiêm minh theo pháp luật để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt.

Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo vì trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, hai bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 bịch ny long được hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 01; 02 bịch ny long màu trắng hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 02; 05 cái nỏ thủy tinh, hai cây kéo (một cái màu xanh đỏ, một cái màu trắng), hai cái hột quẹt gas (một cái màu trắng, một cái màu xanh), một hộp màu xanh có dòng chữ Doublemint; 37 đoạn thủy tinh; hai đoạn ống nhựa màu trắng; một bộ bình tự chế; một bộ bình khè. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu vivo màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu FPT màu xanh đen.

[5] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, định khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt là có cơ sở, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Bị cáo Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Trần Chiến H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2019.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Ngọc H 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2019.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 03 bịch ny long được hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 01; 02 bịch ny long màu trắng hàn kín xung quanh bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu số 02; 05 cái nỏ thủy tinh, hai cây kéo (một cái màu xanh đỏ, một cái màu trắng), hai cái hột quẹt gas (một cái màu trắng, một cái màu xanh), một hộp màu xanh có dòng chữ Doublemint; 37 đoạn thủy tinh; hai đoạn ống nhựa màu trắng; một bộ bình tự chế; một bộ bình khè. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu vivo màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu FPT màu xanh đen.

4. Về án phí: Trần Chiến H và Huỳnh Thị Ngọc H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 ngàn đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về