Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong các ngày 13 và 28 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 162/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 357/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2019 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 390/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị C, đăng ký thường trú tại: Số 162 C, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Thôn X, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh.

2. Bị đơn: Anh Phạm Ngọc T, đăng ký thường trú tại: Số 162 C, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 05 tháng 3 năm 2019 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn là chị Hoàng Thị C trình bày:

Chị Hoàng Thị C và anh Phạm Ngọc T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán từ năm 2001.

Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận L, Hải Phòng ngày 03/7/2003. Đến nay có một con chung.

Quá trình chung sống: Thời gian đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc nhưng đến năm 2003 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên thường xuyên cãi vã, cuộc sống gia đình căng thẳng mệt mỏi. Từ năm 2007 đến nay chị đã về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại Đ, Quảng Ninh, vợ chồng sống ly thân, không quan tâm trách nhiệm đến nhau nữa. Năm 2012 anh Phạm Ngọc T bị bắt và bị xét xử 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Q. Đến nay chị C xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Ngọc T.

- Về con chung: Chị C và anh T có 01 con chung là Phạm Đức M, sinh ngày 06/11/2003. Tại biên bản ghi lời khai ngày 09/4/2019 chị C đề nghị Tòa án giải quyết giao con chung Phạm Đức M cho chị nuôi dưỡng đến khi con thành niên. Tuy nhiên tại phiên tòa, chị trình bày do hiện nay chị sức khỏe yếu, chưa có công việc và nơi ở ổn định, hơn nữa cháu M đang sinh sống với ông bà nội, do vậy chị đồng ý giao cháu M cho anh T nuôi dưỡng đến khi thành niên, trong thời gian anh T đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Q, cháu M sẽ tiếp tục sống với ông bà nội để tiện cho việc sinh hoạt và học tập. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị và anh T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên chị C không có yêu cầu về tài sản.

Quá trình giải quyết vụ án anh Phạm Ngọc T vắng mặt vì lý do đang phải chấp hành án tù. Sau khi tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử anh T có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại bản tự khai gửi về Tòa án, anh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, không cùng nhau đóng góp hay vun vén cho cuộc sống chung nên không có hạnh phúc. Hơn nữa, chị C cũng có mâu thuẫn với mẹ chồng nên hiện tại chị đã bỏ về sống với bố mẹ đẻ tại Đ, Quảng Ninh. Đến nay do anh đang phải chấp hành án phạt tù nên tình cảm vợ chồng không còn, anh đồng ý ly hôn chị Hoàng Thị C.

- Về con chung: Anh T và chị C có 01 con chung là Phạm Đức M, sinh ngày 06/11/2003. Anh T không đồng ý giao con cho chị C nuôi dưỡng do hiện nay chị C không có khả năng nuôi nấng cháu M. Tuy anh T đang chấp hành án phạt tù, nhưng cháu M đã sống với gia đình anh và anh từ khi cháu còn nhỏ, hiện tại cháu vẫn được bố mẹ đẻ và gia đình anh chăm sóc đầy đủ.

- Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản làm việc với cháu M và tổ dân phố nơi anh T và chị C đăng ký thường trú thể hiện: Cháu M sống với ông bà nội và bố từ khi cháu còn nhỏ. Cháu M có nguyện vọng được sống với ông bà nội và bố để đảm bảo cho cháu ổn định việc học tập và sinh hoạt.

Trong thời gian tạm ngừng phiên tòa để bổ sung chứng cứ, Tòa án đã làm việc với bà Đinh Thị C, là mẹ đẻ của anh Phạm Ngọc T. Tại biên bản làm việc ngày 14/8/2019, bà Ca trình bày: Quá trình chung sống, chị Hoàng Thị C và anh Phạm Ngọc T xảy ra nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân mỗi người một nơi từ năm 2007 đến nay. Năm 2012 anh T bị Tòa án xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy với mức án 8 năm tù. Nay chị C có đơn xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn theo quy định pháp luật.

Con chung của anh chị là cháu Phạm Đức M đã sống với ông bà nội từ nhỏ, cháu cũng có nguyện vọng tiếp tục được sống với ông bà nội và bố. Nay bà Đinh Thị C không muốn làm xáo trộn về tâm lý và cuộc sống của cháu nên đề nghị Tòa án giao con cho anh T nuôi, bà cam kết có trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M trong thời gian anh T đang chấp hành án phạt tù.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục về pháp luật tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn chấp hành đúng các quy định về tố tụng, bị đơn không chấp hành các quy định về pháp luật tố tụng.

Về nội dung vụ án: Chị C và anh T kết hôn từ năm 2001 và thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận L, Hải Phòng ngày 03/7/2003 nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống do vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng nên đã ly thân từ năm 2007 đến nay. Xét thấy vợ chồng không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị C được ly hôn anh T theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị C và anh T có 01 con chung là Phạm Đức M, sinh ngày 06/11/2003. Chị C và anh T cùng có nguyện vọng giao con chung Phạm Đức M cho anh T nuôi dưỡng. Trên thực tế, cháu M đã sống với ông bà nội và bố từ nhỏ, chị C sức khỏe yếu, không có công việc và nơi ở ổn định; hiện anh T đang chấp hành án tại Trại giam Q nhưng bà Đinh Thị C là mẹ đẻ anh T cam kết chăm sóc cháu trong thời gian anh T chấp hành án nên cần giao con chung Phạm Đức M cho anh T nuôi là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

Về tài sản chung: Chị C và anh T không có yêu cầu về tài sản chung nên không xem xét.

Về án phí: Chị Hoàng Thị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:

Về tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; theo đơn khởi kiện và biên bản xác minh tại nơi cư trú thể hiện: Anh Phạm Ngọc T có nơi đăng ký thường trú tại: Số 162 C, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng. Căn cứ các điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa nguyên đơn là chị Hoàng Thị C và anh Phạm Ngọc T thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Quá trình xét xử vụ án: Bị đơn là anh Phạm Ngọc T đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Q, có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Phạm Ngọc T. Ngày 13/8/2019 do cần bổ sung tài liệu chứng cứ mà không thể bổ sung ngay tại phiên tòa nên HĐXX đã căn cứ Điều 256 Bộ luật Tố tụng dân sự tạm ngừng phiên tòa. Khi lý do tạm ngừng phiên tòa không còn, Tòa án tiến hành mở lại phiên tòa, nguyên đơn là chị Hoàng Thị C có đơn xin vắng mặt do bị bệnh hiểm nghèo phải cấp cứu tại Bệnh viện Đ, tỉnh Quảng Ninh và được Hội đồng xét xử chấp nhận nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Tòa án tiến hành công bố các tài liệu chứng cứ thu thập được và tuyên án vắng mặt các đương sự.

Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị C và anh Phạm Ngọc T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận Lê Chân, Hải Phòng vào năm 2003 nên là hôn nhân hợp pháp.

[4] Quá trình chung sống: Vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn bất đồng do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên từ năm 2007 đến nay chị C đã về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Năm 2012 anh T phạm tội bị xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện anh T đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Q. Trong thời gian anh T thi hành án phạt tù, chị C không đến thăm nom do tình cảm vợ chồng không còn. Ngoài ra, qua xác minh tại gia đình của chị C và địa phương nơi vợ chồng anh T và chị C đã cư trú cho thấy mâu thuẫn giữa anh chị đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi vậy, chị C yêu cầu được ly hôn anh T là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về nuôi con chung: Chị C và anh T có 01 con chung là Phạm Đức M, sinh ngày 06/11/2003. Cả chị C và anh T cùng có nguyện vọng giao con chung Phạm Đức M cho anh T nuôi dưỡng. Hiện do anh T đang phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam tỉnh Quảng Ninh nên cháu M sống với bố mẹ đẻ anh T tại số 162 C, phường H, quận L, Hải Phòng. Tại biên bản làm việc ngày 04/7/2019, cháu M trình bày có nguyện vọng tiếp tục sống với ông bà nội do mẹ cháu đã bỏ đi từ khi cháu còn nhỏ. Tại phiên tòa, chị C trình bày hiện chị đang bị bệnh, sức khỏe không tốt, chưa có nơi ở ổn định nên khó có khả năng nuôi dạy cháu M tốt nhất. Cháu M đã sống ổn định với ông bà nội từ nhỏ đến nay, bản thân chị cũng như gia đình anh T cùng không muốn làm xáo trộn tâm lý cũng như việc sinh hoạt, học tập của cháu M. Nay cháu M đã 16 tuổi, đã bước vào bậc Trung học phổ thông, việc ổn định về tâm lý cho cháu là cần thiết. Bà Đinh Thị C là mẹ đẻ anh T cũng trình bày về nguyện vọng nuôi cháu M đồng thời cam kết có trách nhiệm tiếp tục chăm sóc cháu trong thời gian anh T đang chấp hành án. Do vậy, việc giao con chung cho anh T nuôi là phù hợp với nguyện vọng của cháu M, các bên đương sự cũng như điều kiện hoàn cảnh trên thực tế và quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị C và anh T tự thỏa thuận nên HĐXX không xét.

[6] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị C và anh Phạm Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Chị C phải nộp 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị C được ly hôn anh Phạm Ngọc T.

- Về nuôi con chung: Giao con chung là Phạm Đức M, sinh ngày 06/11/2003 cho anh T nuôi dưỡng đến khi con thành niên hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do hai bên tự thỏa thuận nên HĐXX không xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Hoàng Thị C phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị C đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0013113 ngày 09 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân.

Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về