Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 24/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 24 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Bé X, sinh năm 1981; cư trú tại ấp Ô, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Công B, sinh năm 1983; cư trú tại ấp Ô, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 3 năm 2019 của chị Trần Bé X và quá trình tố tụng tại Tòa án chị X trình bày: Chị và anh Nguyễn Công B tự nguyện kết hôn vào năm 2002, đến ngày 11/10/2006 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do anh B không lo làm ăn, không quan tâm đến cuộc sống gia đình từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm, thường hay cự cải mặc dù đã được hàn gắn nhưng không thể sống chung được và tự sống riêng từ năm 2015, xét thấy không còn tình cảm với nhau nên chị X yêu cầu ly hôn với anh B.

Thời gian chung sống chị X và anh B có hai người con chung đang ở cùng anh B gồm Nguyễn Thùy T, sinh năm 2003 và Nguyễn Thành L, sinh năm 2004; sau khi ly hôn chị thống nhất giao hai người con cho anh B nuôi theo nguyện vọng của các con, không cấp dưỡng.

Về tài sản chị X không yêu Tòa án giải quyết.

Tại đơn đề nghị vắng mặt của anh Nguyễn Công B trình bày: Anh xác định thời gian chung sống cùng chị Trần Bé X thực tế có xảy ra mâu thuẫn, chủ yếu là chị X có tình cảm với người đàn ông khác nên tự sống riêng, do không tiếp tục chung sống được nên anh chấp nhận ly hôn cùng chị X, ngoài ra anh không yêu cầu gì khác.

Các con của anh B và chị X đều có nguyện vọng ở cùng anh B.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án được thực hiện đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho chị Trần Bé X ly hôn với anh Nguyễn Công B, giao hai người con cho anh B nuôi, không cấp dưỡng, tài sản không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Vụ việc theo yêu cầu của chị Trần Bé X được Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Anh Nguyễn Công B có đơn đề nghị vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt anh B.

[3] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Bé X và anh Nguyễn Công B được xác lập vào năm 2002, đến ngày 11/10/2006 đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập có hiệu lực nên hôn nhân được xác định là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký, nay xảy ra tranh chấp Tòa án căn cứ vào những quy định về chấm dứt hôn nhân theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Quá trình chung sống thực tế có xảy ra mâu thuẫn, chủ yếu là có sự bất đồng về quan điểm, lối sống, từ đó thiếu sự tin tưởng nhau trong cuộc sống và làm cho tình cảm vợ chồng bị ảnh hưởng, phía chị X và anh B đều xác định không thể hàn gắn được và thống nhất ly hôn với nhau. Xét thấy, đã có sự vi phạm nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của chị Trần Bé X được ly hôn với anh Nguyễn Công B là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

 [4] Về nuôi con chung: Chị X và anh B có hai người con chung, sau khi ly hôn chị X thống nhất giao hai người con cho anh B nuôi theo nguyện vọng của con, như vậy các đương sự đã thỏa thuận trong việc nuôi con và sự thỏa thuận của các đương sự không trái pháp luật nên chấp nhận giao con cho anh B nuôi theo nguyện vọng của các con là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu nên không đặt ra.

Chị X có quyền thăm nôm, chăm sóc và giáo dục con theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về chia tài sản: Các đương sự không có yêu cầu nên không giải quyết trong cùng vụ án.

[6] Về án phí: Chị Trần Bé X là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, phần tạm ứng án phí chị X đã nộp được khấu trừ.

 [7] Xét ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát trong việc giải quyết vụ án là có căn cứ được chấp nhận.

 [8] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228, Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử vắng mặt anh Nguyễn Công B.

Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Bé X được ly hôn với anh Nguyễn Công B.

Về nuôi con chung: Anh Nguyễn Công B được nuôi hai người con tên Nguyễn Thùy T, sinh năm 2003 và Nguyễn Thành L, sinh năm 2004 đang ở với anh B. Phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

Chị X có quyền thăm nôm, chăm sóc và giáo dục con không ai được cản trở nhưng không đươc lạm dụng quyền thăm con để gây ảnh hưởng đến việc nuôi con của anh B.

Về chia tài sản: Do đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch Trần Bé X phải chịu 300.000 đồng, chị X đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0005639 ngày 22/3/2019 được khấu trừ.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 24/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về