Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2019 giữa:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc T. Sinh năm : 1986. Nghề nghiệp: Tự do. Trú tại: K236/5 L, phường T, quận T, TP Đà Nẵng. Có mặt.

- Bị đơn: Bà Lê Thiên T. Sinh năm: 1993. Nghề nghiệp: Tự do.

Trú tại: số 307 D, phuờng A, quận S, TP. Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/7/2019, bản tự khai và tại phiên toà sơ thẩm hôm nay, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà Lê Thiên T đăng ký kết hôn tại UBND phường Phước Mỹ - quận Sơn Trà - Thành phố Đà Nẵng vào năm 2016, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện không có sự ép buộc gì. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống cùng với gia đình bà T tại địa chỉ số 307 đường D, phường A, quận S, TP Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3-4 tháng thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng không thể dung hòa và liên tục xung đột, thường xuyên cãi nhau nên đầu tháng 02/2017 tôi bỏ về nhà cha mẹ tôi tại K 236 /5 L, phường T, quận T, TP Đà Nẵng sống. Từ đó đến nay, tôi và bà T không còn liên hệ, không còn quan tâm chăm sóc gì cho nhau nữa. Đến năm 2018, tôi làm đơn khởi kiện ly hôn với bà T thì mới biết gia đình bà T đã bán nhà đi khỏi địa phương. Sau đó, tôi đã làm đơn yêu cầu tuyên bố một người vắng mặt tại nơi cư trú và Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đã giải quyết việc dân sự tuyên bố bà Lê Thiên T vắng mặt tại nơi cư trú theo Quyết định số 01/2019/QĐST-DS ngày 21/01/2019. Nay tôi nhận thấy không còn tình cảm với bà T, cuộc hôn nhân của tôi thực tế không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi yêu cầu tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà Lê Thiên T.

- Về con chung: Tôi xác định không có con chung.

- Về tài sản chung: Tôi xác định không có.

- Về nợ chung: Tôi xác định không có.

Bị đơn, Bà Lê Thiên T đã bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà,TP Đà Nẵng tuyên bố vắng mặt tại nơi cư trú theo Quyết định số 01/2019/QĐST-DS ngày 21/01/2019. Tòa án đã tiến hành xác minh, niêm yết văn bản tố tụng để giải quyết vụ án theo quy định nhưng bà Lê Thiên T từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử không có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia tố tụng tại Tòa án nên không có ý kiến lưu hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu về sự tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự. Theo đó: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng pháp luật từ khâu thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ và mở phiên tòa xét xử đúng quy định. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng tuyên bố vắng mặt tại nơi cư trú theo Quyết định số 01/2019/QĐST-DS ngày 21/01/2019 nên không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật, về nội dung: xét thấy quan hệ hôn nhân của ông T và bà T thực tế không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng nên cần áp dụng điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cho ông T được ly hôn bà Lê Thiên T; về con chung, tài sản chung, nợ chung: Tại phiên tòa hôm nay ông T xác định không có, bà T không có ý kiến về các vấn đề này nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1l] Về thủ tục tố tụng: Bà Lê Thiên T đã bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng tuyên bố vắng mặt tại nơi cư trú theo Quyết định số 01/2019/QĐST-DS ngày 21/01/2019. Do đó, Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Ông Nguyễn Ngọc T và bà Lê Thiên T kết hôn năm 2016 do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, Đà Nẵng theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 77 quyển số 01/2016 cấp ngày 15/8/2016. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn ông T và bà T chung sống cùng với gia đình bà T tại địa chỉ số 307 đường D, phường A, quận S, TP Đà Nẵng. Ông T và bà T chỉ chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo ông T trình bày là do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung không thể dung hòa và liên tục xung đột, thường xuyên cãi nhau nên đầu tháng 02/2017 ông T bỏ về nhà cha mẹ tại K 236/5 L, phường T, quận T, TP Đà Nẵng sống. Từ đó đến nay, ông T và bà T không còn liên hệ, không còn quan tâm chăm sóc gì cho nhau nữa. Đối với bà Lê Thiên T đã bị Tòa án tuyên bố một người vắng mặt tại nơi cư trú theo Quyết định số 01/2019/QĐST-DS ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng nên không xác định được ý kiến của bà T về tình trạng hôn nhân của ông T, bà T. Xét yêu cầu xin ly hôn của ông T thì thấy: Giữa ông T và bà T từ khi kết hôn năm 2016 đến nay hai bên chỉ chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra cả hai bên đều không có giải pháp gì để hàn gắn và xây dựng lại gia đình mà ông T tự bỏ về gia đình cha mẹ ông T để sống, ông T, bà T đã sống ly thân và không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau. Việc gia đình bà T bán nhà đi khỏi địa phương nhưng bà T vẫn không thông báo gì cho ông T biết điều đó thể hiện bà T cũng không còn tình cảm gì đối với ông T, không có sự tôn trọng ông T và không muốn níu kéo cuộc hôn nhân. Do vậy, xét thấy mâu thuẫn của ông T, bà T đã thật sự trầm trọng , hôn nhân thực tế không còn tồn tại, chính quyền địa phương cũng không xác định được việc ông T, bà T chung sống với nhau như thế nào, nguyên nhân mâu thuẫn từ đâu vì thời gian chung sống của ông T, bà T tại địa phương quá ngắn nên HĐXX thấy không cần thiết phải duy trì cuộc hôn nhân mà thực tế đã không còn tồn tại nữa mà cần giải quyết cho ông T được ly hôn với bà T là phù hợp quy định tại điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

[3] Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc T xác định không có con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Ngọc T xác định không có. Bà Lê Thiên T không có ý kiến gì về các vấn đề này nên HĐXX không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc T đối với bà Lê Thiên T về việc tranh chấp ly hôn.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Ngọc T được ly hôn với bà Lê Thiên T (Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Ngọc T đối với bà Lê Thiên T nên giấy chứng nhận kết hôn hôn số 77quyển số 01/2016 do UBND phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng cấp ngày 15/8/2016 không còn giá trị pháp lý)

- Về quan hệ con chung: Không có.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không đề cập đến

2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng ông Nguyễn Ngọc T phải chịu, được khấu trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, biên lai thu số 0007962 ngày 15/7/2019.

Báo cho ông Nguyễn Ngọc T biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 17-10-2019. Riêng Bà Lê Thiên T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được nhận được bản án hoặc bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về