Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 05/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 805/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1981.

Đa chỉ: Số 351, khu 3, ấp 1, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Đỗ Văn S, sinh năm 1982.

Đa chỉ: Tổ 21, ấp P, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Y, anh S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 27/6/2018 và quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Văn S xây dựng gia đình vào năm 2006, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Tân, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh S hay uống rượu, vợ chồng hay cãi vã nhau và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Hiện nay, chị không biết anh S đang ở đâu vì anh S đã chuyển đến nơi khác sinh sống mà không báo cho chị biết. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Đỗ Thành C, sinh ngày 17/5/2006. Ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu C, không yêu cầu anh S cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

* Quá trình Tòa án tiến hành tố tụng anh Đỗ Văn S không đến Tòa để làm việc và không có ý kiến phản hồi.

Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án: Đơn khởi kiện tranh chấp ly hôn; Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của chị Y; đơn xác nhận nơi cư trú của anh S; giấy chứng nhận kết hôn của chị Y, anh S; giấy khai sinh của cháu C; bản tự khai của chị Y, hóa đơn giá trị gia tăng của Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, 03 số báo nhân dân, thủ tục phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; biên bản xác minh tại địa phương; biên bản xác minh của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, đơn đề nghị về việc xin vắng mặt của chị Y.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành: Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn như cung cấp tài liệu, chứng cứ được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Y và anh S là quan hệ hôn nhân hợp pháp, vợ chồng có mâu thuẫn trầm trọng, đã sống ly thân không hàn gắn đoàn tụ được, trong quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Sáu nhiều lần, chị Y có thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú để thông báo đối với anh S nhưng anh vắng mặt nên yêu cầu ly hôn là có căn cứ pháp luật. Có một con chung tên Đỗ Thành C, sinh ngày 17/5/2006.

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Y ly hôn anh S. Về con chung: chấp nhận yêu cầu về việc nuôi dưỡng con chung của chị Y, giao cháu C cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng, về cấp dưỡng: không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung:

Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại thời điểm chị Nguyễn Thị Y nộp đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn ngày 27/6/2018, bị đơn anh Đỗ Văn S có hộ khẩu thường trú tại tổ 21, ấp Phước Hòa, xã Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, đến tháng 7/2018 anh S làm thủ tục cắt hộ khẩu chuyển đến khu 3, ấp 1, xã Phú Tân, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Qua xác minh anh S không đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú tại địa chỉ này, cũng không thông báo cho chị Y biết anh S ở đâu, làm gì sau khi thay đổi nơi cư trú. Do đó, xác định địa chỉ tại tổ 21, ấp Phước Hòa, xã Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai là nơi cư trú cuối cùng của anh Đỗ Văn S để giải quyết tranh chấp ly hôn của chị Y theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai về việc tham gia phiên tòa đối với bị đơn anh Đỗ Văn S nhưng anh S vắng mặt không có lý do, chị Y có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Y, anh S.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Y và anh S tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phú Tân, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 67/2006 quyển số 01 ngày 10/7/2006 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập các bên đương sự nhiều lần, chị Y cũng thực hiện thủ tục tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng, mục đích để mời anh S đến làm việc, ghi nhận ý kiến các bên nhằm hòa giải đoàn tụ nhưng anh S không đến, điều đó thể hiện anh S không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Chị Y trình bày trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn vợ chồng đã không còn sống chung nhà từ năm 2016 đến nay. Như vậy, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Y, anh S đã thực sự trầm trọng, vợ chồng sống ly thân không thể hàn gắn đoàn tụ cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giải quyết cho chị Y được ly hôn với anh S là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y, xử cho chị Y được ly hôn anh S.

Về con chung: Có một con chung tên Đỗ Thành C, sinh ngày 17/5/2006. Hiện cháu C đang sống với chị Y, đồng thời cháu C có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ nên việc giao cháu C cho chị Y nuôi dưỡng là phù hợp theo nguyện vọng của con chung và phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng: Chị Y không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Y phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Y về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Đỗ Văn S, xử cho chị Nguyễn Thị Y được ly hôn anh Đỗ Văn S.

- Về con chung: Xử giao cháu Đỗ Thành C, sinh ngày 17/5/2006 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết các đương sự có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 002436 ngày 28/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, chị Y đã nộp xong án phí.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 05/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về