Bản án 32/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 32/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại Tổ X, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2018/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Hoàng Anh T, sinh ngày 24 tháng 11 năm 1986; sinh trú quán: Thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và con bà Nguyễn Thị S; có vợ là Lý Thị T và có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo có nhân thân xấu: Tại bản án số: 365/HSST ngày 31/10/2011 bị TAND huyện T, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản 24.500.000đ); chấp hành xong án phí ngày 06/2/2012 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/7/2012. Tại bản án số: 09/HSST ngày 20/02/2014 của TAND huyện K, tỉnh Hà Nam xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản1.600.000đ), chấp hành xong án phí ngày 05/5/2014 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10 tháng 3 năm 2018 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 10 tháng 3 năm 2018, Hoàng Anh T cùng với S là bạn nghiện mới quen đến quán nước của ông Đặng Văn Đ, sinh năm 1967 tại đầu đường N, thuộc tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc để uống nước. Khoảng 12 giờ 35 phút cùng ngày có Trương Văn H, H tự khai sinh năm 1997 ở phường T, thành phố P là bạn của S đến gặp và hỏi mua của S 300.000đ tiền ma túy, S trả lời không có ma tuý. Lú đó Hoàng Anh T ngồi cạnh đó, nên nghe thấy H hỏi mua ma túy của S nên nói: “Đưa tiền đây”, H đồng ý đưa cho T 300.000đ, T cầm tiền cất vào túi áo khoác đang mặc rồi lấy 01 gói ma túy trong ba lô của T bán cho H thì bị Công an thị xã P bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.

*Vật chứng đã thu giữ:

Thu giữ của Trương Văn H: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng được niêm phong ký hiệu A1.

Thu giữ của Hoàng Anh T số tiền 300.000đ và 01 ba lô màu đen đã cũ bên trong có chứa 01 bộ bình sử dụng ma túy đá.

Tại kết luận giám định số: 34/KLGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định và kết luận: “Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,0219 gam (không phảy không hai một chín gam, không kể bao bì), loại Methamphetamine”. Hoàn lại mẫu vật: A1= 0.000g cùng toàn bộ bao gói.

Đối với nguồn gốc số ma túy nêu trên, Hoàng Anh T khai nhận là do S cho ngày 09 tháng 3 năm 2018 để T sử dụng. Ngày 10/3/2018 thấy H hỏi mua nên T đã bán để lấy tiền tiêu sài cá nhân.

Đối với người đàn ông tên S đã nêu ở trên, cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

Đối với người đàn ông tự khai tên là Trương Văn H, sinh năm 1997 ở phường T, thành phố P, Vĩnh Phúc, Cơ quan điều tra đã xác minh tại phường T, thành phố P nhưng không có ai có nhân thân, lai lịch như đã nêu trên. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

*Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật A1 cùng toàn bộ bao gói do cơ quan giám định hoàn lại và 01 bộ bình sử dụng ma túy đá cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 300.000đ thu giữ của T là tiền mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc ba lô đã cũ, T không nhận lại, cần tịch thu tiêu hủy.

Tại cơ quan điều tra Hoàng Anh T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 30/CT-VKSPY ngày 30 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố Hoàng Anh T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đối với bị cáo Hoàng Anh T. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt T từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10 tháng 3 năm 2018, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề xuất về việc xử lý vật chứng của vụ án như Bản cáo trạng đã đề cập.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Đối với đối tượng mua ma túy tự khai là Trương Văn H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra H trình bày: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 10 tháng 3 năm 2018, tại quán nước của ông Đặng Văn Đ thuộc tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc H có hỏi mua ma túy của S, nhưng S không có. Lúc đó có Hoàng Anh T ngồi cạnh có bảo H: “Đưa tiền đây”, H đồng ý đưa cho T 300.000đ, T cầm tiền cất vào túi áo khoác đang mặc rồi lấy 01 gói ma túy trong ba lô của T bán cho H thì bị Công an thị xã P bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.

Người làm chứng anh Phan Chí H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra anh H trình bày: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 10 tháng 3 năm 2018, đang chờ khách đê rđi xe ôm tại tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc thì thấy 03 người thanh niên vào quán uống nước nói chuyện với nhau. Sau đó anh thấy người thanh niên tên là H có đưa tiền cho người tên là T, sau đó T đưa lại cho H một gói gì đó thì bị Công an đến bắt quả tang T bán ma túy cho H.

Người làm chứng ông Đặng Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra ông Đ trình bày: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 10 tháng 3 năm 2018, tại quán bán nước của ông ở tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc có 03 người thanh niên vào uống nước nói chuyện với nhau. Sau đó ông thấy người thanh niên tự xưng tên là H có đưa tiền cho người tên là T, sau đó T đưa lại cho H một gói gì đó thì bị Công an đến bắt quả tang T bán ma túy cho H.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, bị cáo khai nhận: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 10 tháng 3 năm 2018 tại quán bán nước ở tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc Hoàng Anh T đã có hành vi bán cho Trương Văn H 01 gói ma túy với giá 300.000đ thì bị Công an thị xã P bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.

[3] Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số: 34/KLGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hành vi bán trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine có trọng lượng lượng là 0,0219 gam với giá 300.000đ của bị cáo đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm tù.

[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy cần phải đưa ra để xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình lao động, bản thân được gia đình nuôi ăn học hết lớp 12 thì ở nhà, tháng 8 năm 2015 bị cáo nghiện ma túy. Bị cáo có nhân thân rất xấu đã 02 lần bị Tòa xét xử về tội: “Trộm cắp tài sản”, hiện đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không coi đó là bài học để rèn luyện bản thân. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, xong cần phải áp dụng hình phạt tù giam mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Hoàng Anh T bán ma túy nhằm mục đích thu lợi bất chính. Nhưng qua xác minh và làm rõ tại phiên tòa bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phù hợp.

Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên về hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Cần tịch thu, tiêu hủy mẫu vật do cơ quan giám định hoàn lại cùng toàn bộ bao gói và bộ bình sử dụng ma túy.

Đối với số tiền 300.000đ thu giữ của T, là tiền mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc ba lô đã cũ, T không nhận lại, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với người đàn ông tên S, T khai trước đó cho T ma túy, Cơ quan điều tra chưa xác định được danh tính cụ thể tiếp tục làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Đối với đối tượng mua ma túy của T tự khai tên là Trương Văn H, sinh năm 1977 ở phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, Cơ quan điều tra đang điều tra làm rõ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Anh T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hoàng Anh T 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 10 tháng 3 năm 2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy: mẫu A1 là 0,00gam cùng toàn bộ bao gói, 01 bộ bình sử dụng ma túy đá, 01 ba lô màu đen đã cũ.

Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). (Vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Phúc Yên với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phúc Yên lập ngày 11 tháng 6 năm 2018).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hoàng Anh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về