Bản án 32/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 32/2018/HSST NGÀY 15/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2018, tại Trường trung học phổ thông huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2017/HSST ngày 07 tháng 12 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:34/2018/HSST–QĐ, ngày 02 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Quàng Văn H; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1998; tại xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản LA, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; trình độ văn hoá: 10/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông: Quàng Văn Tt, sinh năm 1971; con bà: Quàng Thị T, sinh năm: 1971;  bị cáo chưa có vợ con;  tiền sự:  Ngày 16-6-2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 16 ( mười sáu) tháng, đến nay chưa chấp hành; tiền án: Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 18 ( mười tám) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giữ từ ngày 7-9-2017 cho đến nay có mặt tại phiên toà.

2. Quàng Văn P; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1987; tại xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản LB, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông: Quàng Văn H ( đã chết); con bà: Quàng Thị L, sinh năm: 1969; bị cáo có vợ: Quàng Thị M; sinh năm: 1990 và 2 con, lớn 7 tuổi, nhỏ 4 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 7-9-2017 cho đến nay có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tạiphiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 00 phút, ngày 7 tháng 9 năm 2017 tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tại P, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang Quàng Văn H, trú tại: Bản L A, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Quàng Văn P; trú tại: Bản LB, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroin ( H và P khai là Heroin), có trọng lượng 0,19 gam. Rút 0,05 gam ký hiệu H1 làm mẫu vật giám định chất ma túy. Còn lại 0,14 gam ký hiệu H2 ( đã được niêm phong). Và ½ viên ném mầu hồng nghi là ma túy tổng hợp ( H và P khai là ma túy tổng hợp), có trọng lượng 0,07 gam. Rút toàn bộ 0,07 gam làm mẫu vật gửi giám định ký hiệu H3.

Một chiếc xe mô tô, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, BKS: 26B– 080.03 ( xe đã qua sử dụng cũ).

Tại bản kết luận giám định số: 876/KLGĐ, ngày 13-9-2017 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất Heroin; Trọng lượng của mầu gửi giám định là 0,05 gam. Mẫu vật gửi giám định ký hiệu H3 là chất ma túy; loại chất Methamphetamine. Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,07 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,19 gam, loại chất Heroin và 0,07 gam loại chất Methamphetamine”. ( Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Áp dụng công thức tính theo Nghị quyết số: 01/2001/NQ-HĐTP, ngày 15-3-2001 của Hộiđồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao về quy đổi ma túy khác sang Heroin xác định 0,07 gam Methamphetamine tương đương 0,023 gam Heroin. Như vậy tổng trọng lượng Heroin sau khi quy đổi mà Quàng Văn H, Quàng Văn Ph tàng trữ là 0,19 gam + 0,023 gam = 0,23 gam.

Tại cơ quan điều tra các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 7 tháng 9 năm 2017, Quàng Văn H; trú tại bản LA, xã T L, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đi bộ từ nhà sang bản LB, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp Quàng Văn P; trú tại: LB, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quàng Văn H đã rủ Quàng Văn P lên xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. P đồng ý và lấy xe máy chở H lên bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Đến nơi, H bảo P dừng xe đợi H ở ngoài đường liên bản, còn H đi bộ vào một ngõ nhỏ gần đó và gặp một người đàn ông dân tộc thái ( H không biết tên và địa chỉ cụ thể). H đã hỏi mua được của người đàn ông đó 01 gói nilon và 01 viên hồng phiến được gói bằng nilon màu trắng với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, H cầm gói ma túy ở tay phải rồi đi bộ ra chỗ P đứng đợi rồi bảo P điều khiển xe máy chở H sang rừng ma bản P, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm chỗ sử dụng ma túy. Đến nơi H bảo Pg dừng xe, cả hai đi vào một bụi cây ven đường để sử dụng ma túy. H mở gói ma túy vừa mua được ra, san một ít Heroin và bẻ ½ viên hồng phiến cùng P sử dụng. Số ma túy còn lại H gói lại bằng nilon màu trắng cầm ở tay phải rồi bảo P điều khiển xe máy chở H về nhà. Khi H và P đi được khoảng 20 mét thì bị tổ Công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra ma túy. Do sợ bị phát hiện nên H đã thả gói ma túy xuống nhưng vẫn bị tổ công tác phát hiện và bắt quả tang Quàng Văn H, Quàng Văn P về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thu giữ cùng vật chứng như đã nêu.

Tại bản cáo trạng số: 01/KSĐT, ngày 6 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy,  theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P về điều, khoản và tội danh trên. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng khoản 1 Điều 194,điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 củaQuốc Hội; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn H mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 7-9-2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53 BLHS năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; khoản 3Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn P mức án 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 7-9-2017.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo Quàng Văn H, QuàngVăn P.

Áp dụng Điều 41 BLHS năm 1999 và Điều 106 BLTTHS năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,14 gam đã được niêm phong trong một phong bì thư;

Buộc các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 7-9-2017, Quàng Văn H; trú tại: Bản L A, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Quàng Văn P; trú tại: Bảh LB, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,14 gam Heroin và ½ viên ma túy tổng hợp, giám định là Methamphetamine có trọng lượng 0,07 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

[3]. Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vi phạm khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại khoản 1, khoản 5 Điều 194 BLHS năm 1999 quy định :

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm’’.

[4]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 có mức án phạt tù từ hai năm đến bảy năm đối với các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn Ph.

[5]. Hành vi tàng trữ trái phép 0,19gam Heroin và 0,07 gam Methamphetamine của các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có mức án phạt tù từ một năm đến năm năm. Căn cứ vào Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015. HĐXX xét thấy cần xét xử theo hướng có lợi cho các bị cáo, tạo cơ hội cho các bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định :

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[6]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

+ Bị cáo Quàng Văn P không có.

+ Bị cáo Quàng Văn H đã có một tiền sự chưa được xóa án tích và có tiền án về tội ma túy chưa được xóa án tích, nay lại cố tình phạm tội là tái phạm được quy định khoản 1 Điều 49 BLHS năm 1999, đây là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999.

[7].Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 BLHS năm 1999.

[8]. Xét vai trò của các bị cáo: Bị cáo Quàng Văn H là người khởi xướng và rủ rê bị cáo Quàng Văn P phạm tội và thực hiện tội phạm một cách tích cực. Bị cáo Quàng Văn P là người giúp sức, tạo phương tiện để các bị cáo thực hiện tội phạm. Do vậy HĐXX xét thấy cần áp dụng Điều 53 BLHS để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo

[9]. Song nhân thân các bị cáo là người nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma tuý là Nhà nước cấm nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

[10]. Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 BLTTHS năm 2015.

[11]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194BLHS năm 1999. Xét thấy các bị cáo đều là những người nghiện ma túy. không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[12]. Về nguồn gốc số ma túy Quàng Văn H khai mua của một người đàn ông dân tộc thái tại bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La với giá 200.000đ vào ngày 7-9-2017. Do H không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu nên Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

[13]. Đối với chiếc xe mô tô, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, BKS: 26B2 – 080.03 thu giữ của Quàng Văn P. Quá trình điều tra xác định là xe của anh Lò Văn H; trú tại: Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Việc Quàng Văn P dùng xe vào việc phạm tội anh Hải không biết. Anh H có đơn xin lại xe. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã trả lại xe cho chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ đúng pháp luật.

[14]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,14 gam Heroin thu giữ của các bị cáo còn lại sau khi rút gửi giám định là hàng quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 41 BLHS năm 1999 và Điều 106 BLTTHS năm 2015.

[15]. Về án phí:

Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của Nhà nước. Vận dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và  điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

1.Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194,điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p, khoản 1 Điều 46, Điều 53 BLHS năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn H 27 ( hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 7-9-2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 53 BLHS năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Quàng Văn P 15 ( mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 7-9-2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS năm 1999 và 106 BLTTHS năm2015: Tịch thu tiêu hủy: Chất bột Heroin có trọng lượng 0,14 gam ký hiệu H2, đã được niêm phong trong một phong bì thư.

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 135 BLTTH năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS năm 2015: Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:32/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về