Bản án 32/2018/HSST ngày 03/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 32/2018/HSST NGÀY 03/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 01 năm 2018, tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 34/2017/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2017QĐXXST- HS ngày 18 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Giàng A Tr, tên gọi khác: Không, sinh năm 1978; nơi cư trú: Bản BK, xã CL, huyện MS, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Giàng A V, và bà: Mùa Thị M (đều đã chết); có vợ: Lý Thị D và 05 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2017 (có mặt).

2. Giàng A Ch, tên gọi khác: Không, sinh năm 1970; nơi cư trú: Bản BK, xã CL, huyện MS, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Giàng A S (đã chết) và bà: Lý Thị P, có vợ: Lý Thị A và 05 con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2017 (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Giàng A Tr: Bà Cầm Kim Loan là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Giàng A Ch: Ông Lường Duy Tuyên là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Giàng A Ph, trú tại bản BK, xã CL, huyện MS, tỉnh Sơn La (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 50 phút, ngày 29/6/2017 Tổ công tác Công an huyện SM, làm nhiệm vụ tại khu vực bản KT, CK, SM, phát hiện bắt quả tang Giàng A Tr và Giàng A Ch (cả hai đều trú bản Buôn Khoang, xã CL, huyện MS, tỉnh Sơn La), đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy tại phòng 203, nhà nghỉ Trâm Anh thuộc bản KT, CK, SM. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Giàng A Tr và Giàng A Ch. Vật chứng thu giữ:

Thu của Giàng A Tr: 11 gói nilon bên trong chứa nhựa màu nâu đen (nghithuốc phiện); 310.000 đồng; 01 điện thoại di động; 01 ba lô; 01 giấy phép lái xe; 01 CMND mang tên Giàng A Tr. Thu của Giàng A Ch: 01 xe máy BKS: 26K1-097.33; 01 đăng ký xe mô tô; 01 điện thoại di động; 170.000 đồng.

Ngày 30/9/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra huyện SM thành lập Hội đồng mở niêm phong cân tịnh, xác định trọng lượng, trích mẫu trưng cầu giám định số vật chứng thu giữ của Giàng A Tr và Giàng A Ch có trọng lượng 2.861,46 gam, trích 22 gam ký hiệu từ T đến T20, để giám định chất ma túy.

Kết luận giám định số 689/KLMT ngày 07/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu từ T đến T20 đều là chất ma túy, loại thuốc phiện.

Quá trình điều tra Giàng A Tr và Giàng A Ch khai nhận như sau: Cách ngày bị bắt khoảng 10 ngày,  Giàng A Tr từ nhà đến xã CN, MS để mua ngô giống, thì gặp một người đàn ông tự giới thiệu tên là L, ở bên Lào. Qua nói chuyện L có ma túy bán, nên Tr hỏi mua ma túy của L để bán kiếm lời, khi về hai người cho nhau số điện thoại để liên Lc.

Khoảng 09 giờ ngày 27/6/2017 L điện cho Tr hiện có 03kg thuốc phiện, giá bán 8.000.000 VNĐ, Tr đồng ý và thống nhất địa điểm giao ma túy vào ngày hôm sau, tại bản Chi, CL, MS, L cho biết (người L cử đi giao ma túy cho Tr đi xe tay ga màu đỏ, đội mũ bảo hiểm màu đen). Ngày 28/6/2017 Tr gọi điện cho L thông báo đã có 03kg thuốc phiện, L nói loại tốt giá 20.000.000 VNĐ/01kg, loại thường 16.000.000 VNĐ/01kg. Tr và L thống nhất giao dịch mua bán ma túy tại khu vực xã CK, SM, Sơn La. Khoảng 12 giờ ngày 28/6/2017, Tr đi bộ đến khu vực bản Chi, CL, MS để nhận ma túy. Khoảng 14 giờ cùng ngày đến nơi thấy bên cạnh đường dân sinh của bản Chi có một người đàn ông đứng cạnh xe máy tay ga màu đỏ khoảng 10m, đội mũ bảo hiểm màu đen như L đã nói trước, khi Tr dơ tay vẫy thì người đàn ông này đi đến, đưa cho Tr 01 ba lô và nói bên trong có 03 kg thuốc phiện, giao nhận ma túy xong người đàn ông bỏ đi, Tr mang ba lô đựng ma túy về nhà cất dấu. Khoảng 05 giờ ngày 28/6/2017 Tr gọi điện cho  thông báo đã có 03kg thuốc phiện, L đồng ý và bảo Tr 14 giờ cùng ngày gặp nhau tại khu vực nhà nghỉ Trâm Anh, thuộc xã CK, SM để mua bán ma túy.Tr gọi điện cho Giàng A Ch (anh họ ở cùng bản) rủ Ch vào CK, SM, để mua bán ma túy (03kg thuốc phiện), hứa trả tiền công, Ch đồng ý. Sau đó Ch điều khiển xe máy  BKS: 26K1-097.33 (mượn của con Tri Giàng A Ph, ở cùng nhà) chở Tr mang theo ba lô chứa 03kg thuốc phiện đi vào xã CK, SM. Khi đến khu vực xã CK, Tr gọi điện hỏi L địa điểm, mua bán ma túy, L bảo ở phòng 203, nhà nghỉ Trâm Anh. Đến nơi Tr bảo Ch đứng ở dưới sân đợi, còn Tr mang theo ba lô bên trong chứa 03kg thuốc phiện đi đến phòng 203, Tr mở cửa vào thì thấy có một người đàn ông ở đó, Tr đoán là L nên Tr bỏ ba lô thuốc phiện lên giường thì thấy người đàn ông đi ra ngoài  và đi đâu mất, lúc này tổ công tác của Công an huyện SM vào kiểm Tr phát hiện bắt người phạm tội quả tang đối với Giàng A Tr và Giàng A Ch cùng vật chứng.

Tại cáo trạng số: 1083/VKS-P1 ngày 28/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo Giàng A Tr, Giàng A Ch về tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại điểm a khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Giàng A Tr, Giàng A Ch phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng A Tr từ 16 đến 17 năm tù.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53 Bộluật Hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng A Ch từ 15 đến 16 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Giàng A Tr và người bào chữa cho bị cáo Giàng A Ch nhất trí với bản cáo trạng và quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p, k khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm Tr, xét hỏi, Trnh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy nhưsau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều traa Công tỉnh Sơn La, Điều traa viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều traa, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Ngày 29/6/2017 các bị cáo Giàng A Tr và Giàng A Ch, đã có hành vi mua 2.861,46 gam thuốc phiện, sau đó mang đến phòng 203 nhà nghỉ Trâm Anh thuộc bản KT, xã CK, huyện SM, tỉnh Sơn La để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang.

[3] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định chất ma túy số 689/KLMT ngày 07/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu từ T đến T20 đều là chất ma túy, loại thuốcphiện.

[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý chất ma túy của nhà nước, các bị cáo có đủ khả năng nhận thức hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội bị bắt quả tang 11 gói nilon bên trong chứa chất bột màu nâu đen có trọng lượng 2.861,46 gam thuốc phiện. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo Giàng A Tr, Giàng A Ch phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm a (nhựa thuốc phiện, nhựa cần  sa hoặc cao  côca có  trọng  lượng  từ  một  kilôgam đến  dưới  năm kilôgam) khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Trong vụ án này, bị cáo Giàng A Tr là người chủ mưu, khởi sướng và là người trực tiếp đi mua, bán ma túy giữ vai trò chính; đối với bị cáo Giàng A Ch khi được Tr rủ đi bán ma túy đã đồng ý với vai trò đồng phạm giúp sức. Do vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, đúng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo, nhằm trừng trị, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Giàng A Ch phạm tội với vai trò đồng phạm, cần áp dụng Điều 53 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 194. Song xét hoàn cảnh các bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về nguồn gốc 2.861,46 gam thuốc phiện bị thu giữ Giàng A Tr khai mua của một người đàn ông tên L (không quen biết) ở bên Lào để bán cho L ở Hà Nội (là người không quen biết) ngoài lời khai của Tr, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ. Buộc Giàng A Tr và Giàng A Ch phải chịu trách nhiệm hình sự về số ma túy bị thu giữ.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 2.839,46 gam thuốc phiện, sau khi trừ mẫu giám định là mặt hàng nhà nước cấm; 01 túi nilon màu đen và bọc giấy mầu vàng; 01 chiếc ba lô màu xám liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; 01 chiếc ví giả da màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo Giàng A Tr đã hết giá trị sử dụng. Cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của các bị cáo Giàng A Tr và Giàng A Ch, các bị cáo đã sử dụng liên Lc phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với 01 chứng minh nhân; 01 Giấy phép lái xe mô tô xe máy đều mang tên Giàng A Tr, xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả Li cho bị cáo Giàng A Tr.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu SUZUKI biển kiểm soát: 26K1-097.33, thu giữ của bị cáo Giàng A Ch, đăng ký mang tên con Tri của bị cáo là Giàng A Ph, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện phạm tội, không nói cho con Tri và gia đình biết. Xét thấy chiếc xe máy trên là tài sản sở hữu hợp pháp của Giàng A Ph, tại phiên tòa anh Phộng đề nghị xin Li chiếc xe máy trên là có căn cứ, cần được chấp nhận.

- Đối với số tiền 480.000đ cơ quan điều tra thu giữ; Trong đó 170.000đ là của Giàng A Ch, 310.000đ là của Giàng A Tr. Xét thấy số tiền trên không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, xong cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[9] về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Giàng A Tr, Giàng A Ch phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

1. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A Tr 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (29/6/2017).

2. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A Ch 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (29/6/2017).

3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 hộp vật chứng được dán kín bằng giấy trắng có băng dính trắng quấn quanh hộp, còn nguyên niêm phong một mặt có ghi Vật chứng vụ Giàng A Tr phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy có trọng lượng 2.839,46 gam thuốc phiện; 01túi nilon màu đen và bọc giấy màu vàng quấn băng dính màu trắng; 01 chiếc ví giả da màu đen đã cũ; 01 chiếc ba lô màu xám nhãn hiệu SAINTEAGLE đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 02 chiếc điện thoại di động. Trong đó 01 chiếc nhãn hiệu Masstel Model A 150, vỏ màu đỏ, đen, bàn phím bị mất 04 nút bấm số, đã cũ nát. 2 IMEI có 04 số cuối 2680, 2698 kèm 02 sim trong máy (thu giữ của Giàng A Tr); 01 chiếc nhãn hiệu FPT Model FPT, vỏ màu đen, trắng, đen. 2 IMEI 04 số cuối 2614, 2918 kèm 02 sim trong máy (thu giữ củaGiàng A Ch).

- Trả cho bị cáo Giàng A Tr: 01 chứng minh nhân dân mang tên Giàng A Tr, có số 050497629 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 30/10/2003; 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A Tr có số 140092008505, do Sở giao thông vận tải tỉnh Sơn La cấp ngày 19/12/2016.

- Trả cho anh Giàng A Ph (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) 01 chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu SUZUKI loại xe Vi Va 115Fi, màu sơn đỏ, đen BKS: 26K1-097.33. Xe có số máy AFP2212157, số khung 4611E0104201. Xe đã cũ không hoạt động được, có 01 gương chiếu hậu bên trái, không có chìa khóa; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy mang tên Giàng A Ph BKS: 26K1-097.33, có số 003157 do Công an huyện MS cấp ngày 05/11/2015.

- Tạm giữ 480.000 (bốn trăm tám mươi ngàn đồng). Trong đó của Giàng A Ch 170.000đ, của Giàng A Tr 310.000đ để bảo đảm thi hành án.

4. Án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HSST ngày 03/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về