Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 24/05/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 32/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 24-5-2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2018/TLST - HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST – HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Khúc Thị H, sinh năm 1986

Địa chỉ: Thôn V, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

(Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Bị đơn:  Anh Khúc Duy N, sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn V, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

(Anh N vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, và bản tự khai ngày 28-2-2018, nguyên đơn chị Khúc Thị H trình bày: Chị và anh Khúc Duy N kết hôn với nhau do đôi bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã Canh T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 14-9-2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh N ham chơi bời cờ bạc không quan tâm đến vợ con, anh N còn nhiều lần đánh đập, chửi mắng chị. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, do không khắc phục được mâu thuẫn nên vợ chồng chị đã sống ly thân nhau từ năm 2015 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị với anh N không còn, chị đề nghị Tòa án nhân dân (viết tắt TAND) huyện Hưng Hà giải quyết cho chị được ly hôn anh N. Chị và anh N có 03 con chung là Khúc Thị Hồng H, sinh ngày 16-8-2005; Khúc Thị Hồng L, sinh ngày 13-7-2010 và Khúc Thị Mỹ T, sinh ngày 15-01-2013, hiện cả 3 con đang do anh N trực tiếp nuôi dưỡng, nếu vợ chồng ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con út là Khúc Thị Mỹ T, nhường anh N nuôi dưỡng hai con lớn, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Chị và anh N không có tài sản chung, không vay nợ gì ai.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng và của người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Nguyên đơn là chị H đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn là anh Khúc Duy N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng anh N vẫn vắng mặt tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh N.

-  Về giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố Tung dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị H được ly hôn anh N; giao hai con chung là Khúc Thị Hồng H và Khúc Thị Hồng L cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung là Khúc Thị Mỹ T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Về chia tài sản: Chưa xem xét giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà nhận định:

[2] Chị Khúc Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Khúc Duy N, anh Ncư trú tại: Thôn Vế Tây, xã Canh T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

[3] Chị Khúc Thị H có đơn đề nghi xét xử vắng mặt chị, vì vậy Tòa án mở phiên tòa xét xử vắng mặt chị H theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần đến địa chỉ nơi cư trú của anh N để làm việc với anh N về việc giải quyết vụ án nhưng không gặp anh N. Theo xác minh tại chính quyền địa phương và người thân của anh N (ông Khúc Duy Tân, sinh năm 1958, địa chỉ: Thôn Vế Tây, xã Canh T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là bố đẻ anh N), được biết anh N là lao động tự do nên thường hay vắng mặt tại địa phương. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh N (thông qua ông Khúc Duy Tân), anh N đã biết việc chị H khởi kiện xin ly hôn anh nhưng anh không đến Tòa án để giải quyết vụ án, anh có nêu quan điểm của anh về việc giải quyết vụ án thông qua bố anh là ông Khúc Duy Tân. Tại phiên tòa anh N vắng mặt không có lý do, vì vậy TAND huyện Hưng Hà mở phiên tòa xét xử vắng mặt anh N theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Chị Khúc Thị H và anh Khúc Duy N kết hôn với nhau do đôi bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã Canh T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 14-9-2004, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2015 đến nay. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần xử cho ly hôn giữa chị H và anh N là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về nuôi con chung: Chị H và anh N có 03 con chung là Khúc Thị Hồng H, sinh ngày 16-8-2005; Khúc Thị Hồng L, sinh ngày 13-7-2010 và Khúc Thị Mỹ T, sinh ngày 15-01-2013, hiện cả 3 con đang do anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy nếu giao cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng cả 3 con, anh N khó có khả năng chăm sóc nuôi dưỡng con tốt, anh N cũng có nguyện vọng được nuôi hai con lớn, nhường chị H con út, vì vậy cần giao cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng hai con lớn, giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con út, chấp nhận sự tự nguyện anh N không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con cùng anh là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình

[6] Về chia tài sản: Chị H trình bày, chị và anh N không có tài sản chung, nhưng do chưa có ý kiến trực tiếp của anh N nên không có căn cứ để giải quyết phân chia tài sản của anh N và chị H. Các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản (nếu có) bằng vụ kiện dân sự khác.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Khúc Thị H và anh Khúc Duy N.

2. Về nuôi con chung: Giao hai con chung là Khúc Thị Hồng H, sinh ngày 16-8-2005 và Khúc Thị Hồng L, sinh ngày 13-7-2010 cho anh Khúc Duy N trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung là Khúc Thị Mỹ T, sinh ngày 15-01-2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Chị H và anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chưa xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Khúc Thị H phải chịu 300.000đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005060 ngày 28-02-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Chị Khúc Thị H và anh Khúc Duy N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 24/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:32/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về