Bản án 321/2020/HSST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 321/2020/HSST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 361/2020/HSST ngày 12/11/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 362/QĐXX -ST ngày 13/11/2020, đối với bị cáo:

Lường Văn D- Sinh năm: 1986; HKTT: Xã T, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; Chỗ ở: Không xác định; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 3/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Lường Văn T; Họ tên mẹ: Phạm Thị H;

Tiền án: 01 tiền án năm 2007 về tội “ Trộm cắp tài sản” đã xóa án tích;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2013/HSST ngày 25/10/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2014/HSST ngày 13/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát- Tỉnh Lào Cai xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/4/2015.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2016/HSST ngày 29/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/7/2017.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HSST ngày 18/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/11/2019.

Tiền sự: Không; Bắt quả tang ngày 27/7/2020; Bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; ( Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 27/7/2020, Lường Văn D điều khiển xe máy Honda AirBlade, biển kiểm soát 24P2-9841 đi từ Cầu Diễn đến khu vực cổng Bệnh viện Thanh Nhàn để tìm mua ma túy về sử dụng. Trên đường đi, D gọi điện thoại đến số máy 0565805209 của người tên T ( Không biết nhân thân, lai lịch)là bạn xã hội của D, hẹn Tuấn tại cổng Bệnh viện Thanh Nhàn. Khi gặp, D đưa cho T số tiền 500.000đ để nhờ T mua ma túy. T đồng ý và nói với D sẽ góp thêm 1.500.000đ mua ma túy để cả hai cùng sử dụng chung. T nói với D đi ra khu vực cổng trường cấp II Quỳnh Mai đợi T, còn T bỏ đi đâu không rõ. D đi đến công trường cấp II Quỳnh Mai, khoảng 10 phút sau, T đến và đưa cho D 02 gói giấy bạc màu trắng kích thước khoảng 03x03cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. D cầm số ma túy trên lòng bàn tay phải. T nói với D đứng đợi để T đi mua xilanh và tìm nhà nghỉ để cả hai cùng sử dụng ma túy. Khi D đang đứng đợi T thì bị tổ tuần tra Đại đội 2- Tiểu đoàn cảnh sát cơ động số 2, Công an thành phố Hà Nội thấy nghi vấn nên kiểm tra hành chính. D đã tự giác giao nộp 02 gói giấy bạc màu trắng kích thước khoảng 03x03cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản, đưa D cùng tang vật về trụ sở Công an phường Quỳnh Mai để làm rõ.

Ngoài số ma túy, Cơ quan Công an đã thu giữ của D 01 xe máy Honda AirBlade màu đỏ đen, biển kiểm soát 24P2-9841; 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Lường Văn D; 01 điện thoại Samsung màu đen đã qua sử dụng; số tiền 450.000đ.

Tại Bản kết luận giám định số 7033/KLGĐ-PC09 ngày 03/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Lường Văn D là ma túy loại Heroin, có khối lượng 2,939 gam.

Đối với người đàn ông tên T đã mua ma túy cho D: D khai không biết rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đã xác minh chủ sở hữu số thuê bao 0565805209, nhưng không xác định được chủ sở hữu, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy Honda AirBlade màu đỏ đen, biển kiểm soát 24P2-9841: Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định số khung, số máy, nhưng chưa có kết quả. Ngày 22/10/2020, Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách tài liệu liên quan đến xe máy để làm rõ xử lý sau.

Đối với 01 điện thoại Samsung màu đen đã qua sử dụng và số tiền 450.000đ là tài sản cá nhân của D.

Tại Bản cáo trạng số 331/CT/VKS-HBT ngày 06/11/2020, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Lường Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra, xác định bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2016/HSST ngày 29/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, xác định bị cáo Tái phạm nguy hiểm, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố Lường Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Xử phạt: Lường Văn D từ 08 đến 09 năm tù.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo;

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 2,939 gam ma túy loại Heroin;

- Trả lại bị cáo: 01 điện thoại di động Sam sung; Số tiền 450.000đ.

Bị cáo Lường Văn D công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ Bản kết luận giám định số 7033/KLGĐ-PC09 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội; Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: Ngày 27/7/2020, bị cáo Lường Văn D đã có hành vi cất giữ trái phép 2,939 gam ma túy loại Heroin trong người, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đang đứng trước cổng trường cấp II Quỳnh Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ ma túy.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác. Nhà nước đang dùng mọi biên pháp để ngăn chặn tệ nạn ma túy. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HSST ngày 18/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã xác định bị cáo tái phạm nguy hiểm. Bản án này chưa được xóa án. Vì vậy áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Xét thấy, nhân thân bị cáo đã có nhiền tiền án, thể hiện bị cáo không chịu cải tạo để trở thành người lương thiện. Vì vậy cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm về ma túy.

Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đề nghị xét xử bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với đối tượng tên T đã đi mua ma túy cho D để sử dụng chung: do D không biết rõ họ tên, lai lịch, địa chỉ của T nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Xử lý vật chứng: 2,939 gam ma túy loại Heroin thu giữ của bị cáo (trong 01 bì giấy đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lường Văn D) là chất gây nghiện bị cấm lưu hành. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Sam sung màu đen A520F, đã vỡ vỏ phía sau điện thoại, đã qua sử dụng, máy hỏng không lên nguồn, nên không kiểm tra được Imei; số tiền 450.000đ: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho bị cáo.

Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Xử phạt Lường Văn D 06( Sáu) năm 06( Sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 27/7/2020.

nh phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo.

Xử lý vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy: 2,939 gam ma túy loại Heroin (đựng trong 01 bì giấy đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lường Văn D).

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Sam sung màu đen A520F, đã vỡ vỏ phía sau điện thoại, đã qua sử dụng, máy hỏng không lên nguồn, nên không kiểm tra được Imei( Đã được niêm phong);

Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 11/11/2020.

Trả lại bị cáo số tiền 450.000đ theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 12/01/2020.

Về án phí: Bị cáo Lường Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 321/2020/HSST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:321/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về