Bản án 321/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về ly hôn giữa anh Q và chị H

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NĐ, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 321/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2018 VỀ LY HÔN GIỮA ANH Q VÀ CHỊ H

Ngày 12 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2018/TLST-HNGĐ ngày 16-4-2018 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08-6-2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Q, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thửa 405 đường TBS, phường TQK, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Chị H, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Thửa 405 đường TBS, phường TQK, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.

(Anh Q và chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06-4-2018, bản tự khai ngày 18-4-2018 và biên bản hòa giải ngày ngày 08-6-2018, nguyên đơn là anh Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 10-11-2003 tại Ủy ban nhân dân phường NT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2010 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách và quan điểm sống của vợ chồng không hòa hợp. Vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi chửi nhau, coi thường nhau và không tôn trọng nhau. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2010 cho đến nay, trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Trần Thùy L, sinh ngày 29-6-2005 và Trần Huy H, sinh ngày 28-11-2007.

Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh Q và chị H thống nhất thỏa thuận chị H trực tiếp nuôi cả hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con, anh Q tự nguyện cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 1.500.000 đồng/tháng (một triệu năm trăm nghìn đồng/tháng) kể từ tháng 8/2018 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản và công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 09-7-2018, anh Q có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai ngày 24-4-2018, đơn đề nghị ngày 20-4-2018, các biên bản hòa giải, bị đơn là chị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 10-11-2003 tại Ủy ban nhân dân phường NT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống bình thường đến năm 2010 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách của vợ chồng không hòa hợp. Vợ chồng không quan tâm, chia sẻ được với nhau trong cuộc sống. Vợ chồng chị sống ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Nay chị cũng xác định không còn tình cảm với anh Q, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ nhưng chị không đồng ý ly hôn vì các con của chị cần có cả bố và mẹ. Nếu anh Q vẫn kiên quyết giữ yêu cầu ly hôn thì chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị H xác nhận vợ chồng có hai con chung là Trần Thùy L, sinh ngày 29-6-2005 và Trần Huy H, sinh ngày 28-11-2007. Nếu vợ chồng ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, chị đồng ý với mức cấp dưỡng của anh Q cho mỗi con chung là 1.500.000 đồng/tháng (một triệu năm trăm nghìn đồng/tháng) kể từ tháng 8/2018 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản và công nợ chung: Chị xác nhận vợ chồng không có tài sản và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 11-7-2018, chị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 21-6-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ với chính quyền địa phương tại nơi anh Q và chị H cư trú và được cung cấp như sau: Quá trình chung sống của anh Q và chị H có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân cụ thể như thế nào thì chính quyền địa phương không nắm được, chỉ biết vợ chồng anh chị đã sống ly thân khoảng 9 năm nay. Nay anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ vào nguyện vọng của cả hai bên để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25-5-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đối với hai cháu Trần Thùy L và Trần Huy H (con đẻ của anh Q và chị H), cháu Linh và cháu Hiếu đều trình bày nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nhận xét đánh giá:

- Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử ly hôn giữa anh Q và chị H.

+ Về con chung: Giao hai cháu Trần Thùy L và Trần Huy H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Công nhận sự thỏa thuận của anh Q và chị H về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Q cấp dưỡng nuôi mỗi con chung là 1.500.000 đồng/tháng (một triệu năm trăm nghìn đồng/tháng) kể từ tháng 8/2018 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

+ Về tài sản và công nợ chung: Anh Q và chị H không có tài sản và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Q và chị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do vậy Tòa án xét xử vắng mặt anh Q, chị H theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Q và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 10-11-2003 tại Ủy ban nhân dân phường NT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống của anh Q và chị H có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách của hai vợ chồng không hòa hợp. Vợ chồng không chia sẻ được với nhau trong cuộc sống và có thời gian dài sống ly thân. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Chị H xác định vợ chồng không có khả năng đoàn tụ vì không còn tình cảm với nhau nhưng không đồng ý ly hôn. Chính quyền địa phương nơi vợ chồng anh chị sinh sống cũng xác nhận vợ chồng anh chị có mâu thuẫn và ly thân khoảng 9 năm nay. Xét tình trạng hôn nhân giữa anh Q và chị H đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H không đồng ý ly hôn cũng chỉ vì con chung nên yêu cầu ly hôn của anh Q là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần được chấp nhận.

[3] Về con chung: Vợ chồng anh Q và chị H có hai con chung là Trần Thùy L, sinh ngày 29-6-2005 và Trần Huy H, sinh ngày 28-11-2007. Anh Q và chị H thống nhất thỏa thuận với nhau: Sau khi ly hôn chị H sẽ trực tiếp nuôi cả hai con chung. Anh Q có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi mỗi con chung cho chị H là 1.500.000 đồng/tháng (một triệu năm trăm nghìn đồng/tháng) kể từ tháng 8/2018 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Xét sự thỏa thuận giữa anh Q và chị H về người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức và pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản và công nợ chung: Anh Q và chị H xác nhận không có tài sản và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Q phải nộp án phí dân sự sơ thẩm ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa anh Q và chị H.

2. Về con chung: Giao chị H trực tiếp nuôi hai con chung là Trần Thùy L, sinh ngày 29-6-2005 và Trần Huy H, sinh ngày 28-11-2007.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Q cấp dưỡng nuôi mỗi con chung cho chị H là 1.500.000 đồng/tháng (một triệu năm trăm nghìn đồng/tháng) kể từ tháng 8/2018 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Anh Q và chị H vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom. Người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Anh Q phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn và 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0001286 ngày 16-4-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ. Anh Q còn phải nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

4. Quyền kháng cáo: Anh Q và chị H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 321/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về ly hôn giữa anh Q và chị H

Số hiệu:321/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về