Bản án 320/2018/HSST ngày 29/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 320/2018/HSST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TNxét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 312/2018/TLST- HS ngày 25 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 314/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Đoàn Thị Thanh T, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1967

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 1, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 9/10. Con ông Đoàn Ngọc T, con bà Lại Thị T (đã chết); gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ nhất; Có chồng là Vũ Văn M sinh năm 1955 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1989.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại bản án số 05/HSST ngày 21/01/2010 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 24 tháng tù giam về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong bản án vào ngày 12/3/2011

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/5/2018 đến nay

(Có mặt tại phiên tòa)

Người làm chứng:

1. Anh Lương Văn T, sinh năm 1986

Địa chỉ: Xóm N , xã M, huyện PH, tỉnh Cao Bằng

2. Anh Bùi Mạnh T, sinh năm 1968

Địa chỉ: Tổ 3, phường Q, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

3. Anh Phạm Xuân V, sinh năm 1976

Địa chỉ: Tổ 20, phường H, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến:

(Đều vắng mặt tại phiên tòa).

1. Ông Hoàng Ngọc G, sinh năm 1947

Địa chỉ: Tổ 1, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

2. Bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1954

Địa chỉ: Tổ 1, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 31/5/2018, tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà của Đoàn Thị Thanh T thuộc tổ 01, phường T, thành phố TN có nhiều đối tượng tụ tập có biểu hiện nghi vấn liên quan tới ma túy. Tổ công tác đến nơi và tiến hành kiểm tra thì phát hiện tại nhà T có T và 03 người đàn ông, gồm: Bùi Mạnh T (sinh năm 1968, trú tại tổ 3, phường Q, thành phố TN), Phạm Xuân V (sinh năm 1976, trú tại tổ 20, phường H, thành phố T) và Lương Văn T (sinh năm 1986, trú tại xóm N, xã M, huyện P, tỉnh Cao Bằng). Quá trình kiểm tra, T khai nhận có cất giấu ma túy và tự giác lấy từ túi xách màu đen T đang cầm trên tay ra 01 gói giấy bên trong là lớp nilon màu đen, bên trong chứa cục chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác.T khai đó là ma túy Heroine,T cất giấu để bán cho những người nghiện ma túy. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ củaT 300.000 đồng theoT khai là tiền bán ma túy cho 03 người đàn ông trên. Kiểm tra 03 người đàn ông không phát hiện thu giữ gì (các đối tượng khai sau khi mua xong ma túy của T đã sử dụng hết). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định (BL 33 – 34).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành khám xét đối với chỗ ở, đồ vật, tài liệu của Đoàn Thị Thanh T tại tổ 1, phường T, thành phố TN thu giữ 02 xi lanh đã qua sử dụng tại thùng rác để ở góc phòng ngủ, 02 xi lanh chưa qua sử dụng phát hiện thu giữ tại nền nhà trong phòng ngủ, 01 chai nhựa màu trắng, nắp chai màu đỏ trên nắp chai có gắn 01 ống hút nhựa. Ngoài ra không thu giữ gì thêm. Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật (BL 35 – 36).

Ngày 31/5/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN hành mở niêm phong, cân xác định số chất bột màu trắng thu giữ của Đoàn Thị Thanh Tcó khối lượng 1,907 gam (BL 40).

Tại kết luận giám định số 713/KL-PC54 ngày 06/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Đoàn Thị Thanh T là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 1,907 gam (BL 42).

Tại cơ quan điều tra Đoàn Thị Thanh T khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 31/5/2018, có một người đàn ông tên Đ (khoảng 40 tuổi, nhà ở phường T, thành phố TN) đưa choT số Heroine nêu trên đểT đi bán và thỏa thuận khi bán hếtTcầm tiền đưa lại cho Đ, Đ sẽ trả công cho T bằng Heroine,T đồng ý. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 31/5/2018,Tđang ở nhà thì có Lương Văn T đến hỏi mua của T 100.000 đồng tiền Heroine,T đồng ý.Tcầm tiền và đưa Heroine cho T. Đúng thời gian này, Bùi Mạnh T và Phạm Xuân V cùng đến và hỏi mua Heroine củaTmỗi người 100.000 đồng,Tđồng ý rồi cầm tiền và đưa Heroine cho T và V. Sau đó,T đi ra ngoài cửa thì bị tổ công tác Công an thành phố TN phát hiện bắt quả tang như nêu trên. (BL 70 – 82).

Lời khai nhận của Đoàn Thị Thanh T phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định (BL: 33 – 34; 44 – 51 52 – 56; 58 – 62; 64 – 68; 39; 42).

Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 310/CT-VKSTPTN ngày 23/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TNđã truy tố Đoàn Thị Thanh Tvề tội: "Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả.

Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích đánh giá chứng cứ xác định bị cáo Đoàn Thị Thanh Tphạm tôi “Mua bán trái phép chất ma túy”; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Thị Thanh Tphạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt Đoàn Thị Thanh T từ 07 (bảy) năm 6 (sáu) tháng đến 8 năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 (bên trong chứa chất ma túy), 02 xi lanh chưa qua sử dụng, 02 xi lanh đã qua sử dụng, 01 chai nhựa màu trắng, nắp chai màu đỏ có gắn ống nhựa.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố là không oan, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất sớm trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định khoảng 12 giờ 20 phút ngày 31/5/2018, tại nhà của mình thuộc khu vực Tổ 1, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên Đoàn Thị Thanh Tcó hành vi bán cho Lương Văn T, Bùi Mạnh T, Phạm Xuân V mỗi người 100.000 đồng Heroine mục đích để kiếm lời thì bị tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Trong một khoảng thời gian liên tục Đoàn Thị Thanh T đã bán ma túy cho các đối tương nghiện là Lương Văn T, Bùi Mạnh T, Phạm Xuân V để thu lời bất chính. Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn mua ma túy về bán cho các đối tượng nghiện ma túy để kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm nghiêm trọng đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội, gây mất an toàn trật tự tại địa phương. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

c, Đối với 02 người trở lên”.

Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác gây nhức nhối trong xã hội. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: Bị cáo Đoàn Thị Thanh Tchưa có tiền án tiền sự, có nhân xấu: Tại bản án hình sự số 05/HSST ngày 21/01/2010 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Đoàn Thị Thanh T24 tháng tù giam về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong bản án vào ngày 12/3/2011. Nhưng sau đó bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, hám lời bất chính, tiếp tục phạm tội.

Xét tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, xác định lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là đúng, không quanh co, đổ lỗi cho người khác và xác định việc bị cáo phạm tội là do ý thức chủ quan của bị cáo, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Khối lượng (trọng lượng) Heroine bị cáo tàng trữ để bán, khi khám xét thu giữ được chỉ có trọng lượng 1,907gam. Ngoài ra, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử cân nhắc cho bị cáo hưởng mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[4] Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong ký hiệu T1 là chất ma túy, là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 02 xi lanh chưa qua sử dụng và 02 xi lanh đã qua sử dụng, 01 chai nhựa màu trắng, nắp chai màu đỏ có gắn 01 ống hút nhựa là vật dụng do bị cáo sử dụng vào việc mua, bán, sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 300.000đ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là doT bán ma túy mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước

[5] Về hình phạt bổ sung và án phí

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015 đối với bị cáo. Tuy nhiên do hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn, bản thân là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì lại phải nuôi một con gái bị bệnh và 01 cháu nhỏ nên hội đồng xét xử sẽ xem xét mức hình phạt phù hợp với điều kiện của bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Về việc những người làm chứng khai sau khi mua ma túy củaTthì sử dụng luôn tại nhàTnhưngTkhông biết việc này. Lời khai này phù hợp với các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa hôm nay vì T cho biết, không biết các đối tượng sau khi mua xong ma túy sử dụng tại nhà mình, bán xong T thường đi ra ngoài luôn nên không đủ căn cứ để truy tố Đoàn Thị Thanh T về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, Đoàn Thị Thanh T khai được một người đàn ông tên Đ ở phường T, thành phố TN nhờ bán hộ. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Đối với hành vi mua Heroine để sử dụng của Lương Văn T, Bùi Mạnh T, Phạm Xuân V là những người mua ma túy của Đoàn Thị Thanh Tvề sử dụng cho bản thân. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố TN đã lập biên bản giáo dục.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Thị Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy"

1. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Đoàn Thị Thanh T 07 (Bảy) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2018;

Phạt bổ sung bị cáo T 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước. 

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo Đoàn Thị Thanh T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 là chất ma túy, 02 xi lanh chưa qua sử dụng và 02 xi lanh đã qua sử dụng, 01 chai nhựa màu trắng, nắp chai màu đỏ có gắn 01 ống hút nhựa.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 309 ngày 20/7/2018 và ủy nhiệm chi số 75 ngày 05/7/2018.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, buộc bị cáoT phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 320/2018/HSST ngày 29/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:320/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về