TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 317/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA BÀ T VÀ ÔNG T
Ngày 07 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 631/2019/TLST.HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019, về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 109/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1993. Địa chỉ: ấp NH, xã TH, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Bà Nguyễn Thị Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2.Bị đơn: Ông Lý Thanh T, sinh năm 1989. Vắng mặt.
Địa chỉ: ấp VT, thị trấn CD, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày và có ý kiến như sau:
- Về hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lý Thanh T do tự tìm hiểu, quen biết nhau vào năm 2012 và tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2014, không có tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai, có đăng ký kết hôn trễ hạn theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 90/2015, quyển số: 01/2015, ngày 09/11/2015 tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cải, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cả hai không có tiếng nói chung, ông Tùng thường xuyên không quan tâm chăm sóc vợ con, mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không khắc phục được và vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm của vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Lý Thanh T.
- Về con chung: Có 01 con chung chưa thành niên tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015. Hiện cháu H đang sống chung với bà Nguyễn Thị Ngọc T. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015; không yêu cầu ông Lý Thanh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lý Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
*.Bị đơn ông Lý Thanh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Lý Thanh T không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Phú nhận định:
[2] Về tố tụng: Phiên tòa được mở lần thứ hai nhưng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 19/6/2020, với nội dung đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Ngọc T. Ông Lý Thanh T đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng ông Lý Thanh T vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lý Thanh T.
[3] Về hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lý Thanh T hôn nhân hợp pháp bởi ông bà có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014. Xem xét yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc T, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của ông bà đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẫn mà không thể hàn gắn được do giữa ông bà không có sự cảm thông cho nhau. Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, ông Lý Thanh Tùng không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc T. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc T là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với ông Lý Thanh T.
[4] Về nuôi con chung: Theo giấy khai sinh của Lý Ngọc Gia H, lời trình bày của bà Nguyễn Thị Ngọc T thì bà và ông Lý Thanh T có con chung chưa thành niên tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015. Hiện cháu H đang sống chung với bà Nguyễn Thị Ngọc T. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015; không yêu cầu ông Lý Thanh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Xét thấy, con chung được bà Nguyễn Thị Ngọc T giáo dục, chăm sóc và quyền lợi của con chung được đảm bảo, nên bà Nguyễn Thị Ngọc Trâm yêu cầu tiếp tục nuôi con chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Nguyễn Thị Ngọc T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung chưa thành niên tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015. Ông Lý Thanh T có quyền và ngh a vụ thăm nom con. Bà Nguyễn Thị Ngọc T và các thành viên trong gia đình của bà Nguyễn Thị Ngọc T không được cản trở ông Lý Thanh T thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Trâm không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày giữa bà và ông Lý Thanh T là không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay do không có mặt của ông Lý Thanh T để đối chất làm rõ các mối quan hệ này nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lý Thanh T. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 90/2015, quyển số: 01/2015, ngày 09/11/2015 tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai không còn giá trị pháp lý.
2.Về nuôi con chung: Có 01 (một) con chung chưa thành niên tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015.
1.Giao con chung chưa thành niên tên Lý Ngọc Gia H, sinh ngày 02/11/2015 cho bà Nguyễn Thị Ngọc T được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Ông Lý Thanh T có quyền và ngh a vụ thăm nom con. Bà Nguyễn Thị Ngọc T và các thành viên trong gia đình của bà Nguyễn Thị Ngọc T không được cản trở ông Lý Thanh T thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
2.2.Bà Nguyễn Thị Ngọc T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3.Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
4.Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005587 ngày 02 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Bà Nguyễn Thị Ngọc T đã nộp đủ.
5.Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lý Thanh T vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 317/2020/HNGĐ-ST ngày 07/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà T và ông T
Số hiệu: | 317/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về