Bản án 317/2020/HNGĐ-ST ngày 06/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 317/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06/04/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 1203/2019/TLST-HNGĐ ngày 04/12/2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2020/QĐXXST -HNGĐ ngày 13/03/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ N, sinh năm: 1983 (có đơn xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: 54 Nguyễn Quang Bích, phường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: 43/32 đường HB, khu phố A, phường HBP, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh. Minh.

2. Bị đơn: Ông Vũ Ngọc Điệu, sinh năm: 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: 43/32 đường HB, khu phố A, phường HBP, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Điệu tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 74/2013, quyển số: 1/2013 do UBND xã Kim Lương, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương cấp ngày 19/12/2013. Sau khi kết hôn cuộc sống đã không hạnh phúc nhưng vẫn cố gắng vun vén gia đình và có 01 con chung, nhưng sau khi đám cưới khoảng 03 tháng thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không có sự tin tưởng nhau, áp lực cuộc sống nên thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã nhau khiến tinh thần cả hai mệt mỏi, chán nản. Tuy hiện tại cùng sống chung nhà nhưng thực tế sống ly thân từ khi có con là 04 năm, không có sự quan tâm, lo lắng cho nhau, mạnh ai nấy sống. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được do không có sự thấu hiểu, thông cảm cho nhau nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn với ông Vũ Ngọc Điệu.

- Về con chung: Có 01 người con chung tên Vũ Ngọc Duy A (nam), sinh năm: 27/6/2014. Sau ly hôn bà yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

- Về cấp dưỡng: Không yêu cầu ông Điệu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung; nợ chung: Bà tự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết * Đối với bị đơn: Căn cứ theo kết quả xác minh về tình trạng cư trú của Công an phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức thì ông Vũ Ngọc Đ thực tế đang cư trú tại địa chỉ số: 43/32 đường Hiệp Bình, khu phố 6, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn có đơn xin được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

- Bị đơn ông Vũ Ngọc Đ đã được toà án tiến hành các thủ tục tố tụng hợp lệ từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng, không giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào cho Tòa án, cũng không có ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý cho đến mở phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự có mặt chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đã được Tòa án tiến hành các thủ tục hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình được pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ vào kết quả xác minh về tình trạng cư trú của Công an phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức thì địa chỉ nơi cư trú của bị đơn tại: 43/32 đường HB, khu phố A, phường HBP, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh, nên theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được toà án tiến hành các thủ tục tố tụng hợp lệ từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 228, Điểm a Khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

2. Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn, hội đồng xét xử nhận thấy.

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ N và ông Vũ Ngọc Đ tự nguyện đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 74/2013, quyển số: 1/2013 do UBND xã Kim Lương, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương cấp ngày 19/12/2013. Căn cứ Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Nhàn và ông Điệu là hôn nhân hợp pháp.

Theo trình bày của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N tại bản tự khai, tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì bà và ông Điệu kết hôn tự nguyện, chung sống thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự tin tưởng nhau, áp lực cuộc sống nên thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã nhau khiến tinh thần cả hai mệt mỏi, chán nản, hiện tại vợ chồng không còn sự quan tâm, lo lắng cho nhau, mạnh ai nấy sống. Bà xác nhận ngoài các chứng cứ giao nộp cho Toà án, không bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác, về thủ tục sao gửi tài liệu, chứng cứ cho bị đơn đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định pháp luật. Tòa án đã tiến hành hòa giải, hàn gắn, đoàn tụ gia đình nhưng bà Nhàn xác định tình cảm vợ chồng với ông Điệu không còn, có hàn gắn, chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc, vì vậy mà mục đích hôn nhân không có, nên bà kiên quyết ly hôn. Bà Nhàn có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do bận công việc, xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn với ông Điệu, đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn ông Vũ Ngọc Đcũng đã được Tòa án tiến hành xác minh địa chỉ cư trú, triệu tập nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do, cũng không có bất cứ văn bản ghi nhận ý kiến nào gửi cho Tòa án đối với yêu cầu ly hôn của bà Nhàn. Do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nên Tòa án tiến hành hoãn phiên tòa theo thủ tục pháp luật quy định và tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa lần hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt, điều này cho thấy ông Điệu cũng không còn sự quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với bà Nhàn.

Xét, vợ chồng thì phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình, vợ chồng thì phải chung sống cùng nhau, có tình nghĩa vợ chồng nhưng theo những gì nguyên đơn trình bày cho thấy quan hệ hôn nhân của ông, bà hiện tại đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, nên mục đích hôn nhân cũng không đạt được.

Vì lý do trên, căn cứ Điều 19, Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

2.2. Về con chung: Căn cứ lời trình bày, tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn cung cấp, căn cứ bản sao giấy khai sinh số 335/2014, quyển 02/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 13, quận Tân Bình đăng ký ngày 28/07/2014 có cơ sở xác định con tên Vũ Ngọc Duy A(nam), sinh năm: 27/6/2014 là con chung của bà Nhàn và ông Điệu. Hiện bà Nhàn là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Điệu không có ý kiến gì về quyền nuôi con, về cấp dưỡng bà Nhàn không yêu cầu ông Điệu cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao con chung chưa thành niên tên Vũ Ngọc Duy A(nam), sinh năm: 27/6/2014 cho bà Nguyễn Thị Mỹ N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

2.3. Về tài sản chung; nợ chung: Đương sự tự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 186, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Điểm a Khoản 1 Điều 238, Điều 264, Điều 266, Điều 273, Điều 280, Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 19, 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ N 1.1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Mỹ N và ông Vũ Ngọc Điệu 1.2. Về con chung: Giao con chung chưa thành niên tên tên Vũ Ngọc Duy A(nam), sinh năm: 27/6/2014 cho bà Nguyễn Thị Mỹ N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

1.3. Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Về tài sản chung; nợ chung: Đương sự tự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Mỹ N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0056143 ngày 04/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức. Bà Nguyễn Thị Mỹ N đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 317/2020/HNGĐ-ST ngày 06/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:317/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về