Bản án 317/2019/HSST ngày 10/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ  T, TỈNH T N

BẢN ÁN 317/2019/HSST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố T.N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 327/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 336/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức C, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 14/5/1971, tại T.N. HKTT: Tổ H, phường T.L, thành phố T.N, tỉnh T.N; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức Tr (đã chết) và bà Hà Thị T; Vợ: Hà Thị Th, sinh năm 1973, có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2005. Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T.N (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/5/2019 đến nay), có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1. Ông Trần Văn S, sinh năm 1958, (Vắng mặt).

Trú tại: Tổ 29, P. P.X, TP. T.N, tình T.N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, tổ công tác Công an phường P.X, thành phố T.N tiến hành tuần tra tại khu vực đường 3/2 thuộc tổ 29, phường Phú Xá, thành phố T.N thì phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra , người đàn ông chấp hành V à khai tên là Nguyễn Đức C (Sinh năm 1971, trú tại: tổ 9, phường T.L, thành phố T.N). Quá trình kiểm tra, phát hiện tại túi quần bên phải phía trước C đang mặc có 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (theo C khai là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Đức C, thu giữ và niêm phong vật chứng đưa về trụ sở Công an phường P.X để điều tra làm rõ. Ngoài ra không thu giữ gì khác.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an thành phố T.N tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng : số chất bột màu trắng có khối lượng 0,242 gam, niêm phong gửi giám định ký hiệu là C.

Tại bản Kết luận giám định số 778/ KL-KTHS ngày 16/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.N kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu C gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,242 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đức C khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, Cường bắt xe khách đi từ nhà tại tổ 9, phường T.L, thành phố T.N đi dọc đường quốc lộ 3/2 để đi đến khu vực xã T.X, thị xã P. Y, tình T.N để tìm mua ma túy sử dụng. Khoảng 15 giờ 15 phút, C xuống đến xã T.X, gặp và mua 01 gói Heroine của một người đàn ông không quen biết với giá 200.00 đồng. Sau đó, C cất gói ma túy trong túi quần bên phải phía trước Cường đang mặc, bắt xe khách về nhà để tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 25 phút cùng ngày, C đi đến khu vực cánh đồng đối diện hồ nước sạch thuộc tổ 29, phường P.X, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác Công an phường P.X, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên

Lời khai nhận của Nguyễn Đức C phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án là: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu C, bên trong chứa ma túy. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.N chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 329/CT-VKSNDTP, ngày 05/6/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N, tỉnh T.N đã truy tố Nguyễn Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm C khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức C khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N trình bày lời luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm C khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C từ 18 đến 24 tháng tù giam; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Xử lý theo quy định tại Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu C bên trong có chứa ma túy;

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì; tại phần lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T.N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 40 phút ngày 08/5/2019, tại tổ 29, phường P.X, thành phố T.N, tỉnh T.N, Nguyễn Đức C có hành vi tàng trữ 0,242 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường P.X, thành phố T.N phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N truy tố bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm C khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà còn là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo phải bị xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: BỊ cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo không có thu nhập, không có tài sản gì có giá trị, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[4]. Vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu C (bên trong có chứa ma túy) cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Đức C khai mua của một nam thanh niên không quen biết tại khu vực gần cầu ĐP thuộc xã T.X, thị xã P.Y, tỉnh T.N. Do không xác định được người bán ma túy cho C nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T.N không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm C khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Nguyễn Đức C 18 (Mười tám) tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự  đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án

[2]. Vật chứng:Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu C (bên trong có chứa ma túy);

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng s 347 ngày 06/6/2019 giữa Công an thành ph T.N và Chi cục thi hành án dân sự thành ph T.N).

[3]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

[4]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 317/2019/HSST ngày 10/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:317/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về