Bản án 316/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 316/2020/HS-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 251/2020/TLST- HS ngày 16 tháng 6 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 315/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1997, tại thành phố Cần Thơ; thường trú: ấp V, xã P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1977 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1976; có 01 em ruột, sinh năm: 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 09/3/2020, có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Thị Th, sinh năm 1993, tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T, xã T, huyện N, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn C, sinh năm: 1971 và bà Phạm Thị L, sinh năm: 1971; có 01 anh ruột, sinh năm: 1991; tiền án: Không:

Tiền sự: Ngày 23/4/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An) ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bình Dương về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Nhân thân: Ngày 29/11/2013, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) xử phạt 12 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Bị bắt tạm giam ngày 09/3/2020, có mặt tại phiên tòa.

3. Đặng Hồng P (tên gọi khác P Pin), sinh năm 2000, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Ấp T, xã B, huyện H, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Hoàng N, sinh năm 1957 và bà Lê Thị Diệu K, sinh năm 1960; có 02 anh chi ruột, lớn sinh năm: 1980, nhỏ sinh năm 1988; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 09/3/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Đức A; vắng mặt.

2. Lê Yến N; vắng mặt.

3. Nguyễn Đức Q; vắng mặt.

4. Lê Văn B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T, Lê Thị Th và Đặng Hồng P nghiện ma túy, loại methamphetamine. Khoảng 04 giờ ngày 09/3/2020, tại phòng trọ số 11 nhà trọ số 51 khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thành phố Dĩ An, T nói Th đưa 300.000 đồng để mua ma túy về sử dụng. Sau khi nhận tiền từ Th, T sử dụng điện thoại hiệu Samsung có sim số 0394791080 gọi messenger cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 300.000 đồng ma túy; người đàn ông nói ra đứng trước phòng trọ để nhận ma túy. T ra đường đứng đợi khoảng 15 phút thì mua được 04 gói ma túy được bảo quản trong các gói nylon miệng hàn kín đựng trong 01 túi nylon miệng kéo dính. T vào phòng trọ đưa ma túy cho Th cất dưới tấm nệm rồi ngủ tiếp. Đến 07 giờ cùng ngày, Đặng Hồng P điều khiển xe mô tô biển số 68D1-630.85 đến phòng trọ của T chơi. T lấy 04 gói ma túy ra rồi lấy 01 gói bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng, 03 gói còn lại T để gần chỗ của P. P lấy 03 gói ma túy này bỏ vào túi xách da màu đen của P vì sợ người khác biết. Khi T, Th và P đang sử dụng ma túy thì Th hỏi P “số ma túy còn lại ở đâu” thì P lấy ra cho Th xem. Nguyễn Đức Q đang ngủ trên gác của phòng trọ thì T nói Q thức dậy sử dụng ma túy, Q sử dụng ma túy được 02 hơi thì lên gác ngủ tiếp. Khoảng 09 giờ cùng ngày, T hỏi mượn xe mô tô biển số 61D1-630.85 của P đi tìm thuê phòng trọ. Th lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy để gần khu vực bếp rồi chơi game cùng với P. Sau khi hỏi được phòng trọ, T điều khiển xe mô tô, biển số 68D1-630.85 về đến đường đoạn thuộc khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thành phố Dĩ An thì bị lực lượng tuần tra Công an phát hiện có dấu hiệu nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, T dương tính với ma túy và T khai nhận sử dụng ma túy tại phòng trọ nhà trọ khu phố B, phường A, thành phố Dĩ An. Tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ phát hiện có Đặng Hồng P, Lê Thị Th, Nguyễn Đức A, Lê Yến N, Nguyễn Đức Q và Lê Văn B, trong phòng có phát hiện 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, gồm: 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa, 01 ống hút bằng nhựa. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Tú phát hiện trong túi xách da màu đen của Phúc có 03 gói ma túy, tiến hành lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang bắt khẩn cấp T, Th và P.

Căn cứ kết luận giám định số 117/MT-PC09 ngày 17/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu chất gửi đến giám định là ma túy loại methamphetamine có khối lượng là 0,5237gam.

Đối với Nguyễn Đức A, Lê Yến N, Nguyễn Đức Q, Lê Văn B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Dĩ An xử phạt hành chính mỗi đối tượng 750.000 đồng và thông báo về địa phương quản lý giáo dục.

Đối với đối tượng bán ma túy cho T tại khu vực gần nhà trọ khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 288/CT–VKS ngày 16 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Thị Th và Đặng Hồng P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Nguyễn Thanh T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; Lê Thị Th mức án từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù và Đặng Hồng P mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị:

Đối với xe mô tô hiệu RaiDer, biển số 68D1-630.85, số khung RLSDL11ANLV136012, số máy CGA1536305 do Đặng Hồng P đứng tên đăng ký. Xe không liên quan đến hành vi phạm tội của P và đồng phạm, trả lại cho đại diện gia đình của P.

Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 ống hút, 01 nỏ thủy tinh, một chai nhựa, ma túy còn lại sau giám định có khối lượng là 0,4807 gam và sim điện thoại số 0394791080, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng loại CE 0168 IMEI 356431/08/062423/9 cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 04 giờ ngày 09/3/2020, tại phòng trọ số nhà trọ khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Lê Thị Th đưa tiền cho Nguyễn Thanh T mua ma túy về sử dụng. Sau khi sử dụng xong, còn lại 03 gói ma túy loại methamphetamine có khối lượng là 0,5237 gam, Đặng Hồng P cất giữ trong túi xách thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện. Như vậy, hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 288/CT–VKS ngày 16 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo nhân xấu, nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 ống hút, 01 nỏ thủy tinh, một chai nhựa, ma túy còn lại sau giám định có khối lượng là 0,4807 gam và sim điện thoại số 0394791080 cần tịch thu tiên hủy; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng loại CE 0168 IMEI 356431/08/062423/9.

[8] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành; nên không xem là đồng phạm có tổ chức.

[9] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Đối với đối tượng bán ma túy cho T tại khu vực gần nhà trọ số 51 khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Đức A, Lê Yến N, Nguyễn Đức Q và Lê Văn B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, xử phạt hành chính mỗi đối tượng 750.000 đồng và thông báo về địa phương quản lý giáo dục.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Thị Th và Đặng Hồng P phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2020.

- Xử phạt bị cáo Lê Thị Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2020.

- Xử phạt bị cáo Đặng Hồng P 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 ống hút, 01 nỏ thủy tinh, một chai nhựa, ma túy còn lại sau giám định có khối lượng là 0,4807 gam và sim điện thoại số 0394791080.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng loại CE 0168 IMEI 356431/08/062423/9.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/6/2020, bút lục 243).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Thị Th và Đặng Hồng P, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 316/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:316/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về