Bản án 316/2020/HNGĐ-ST ngày 06/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 316/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06/04/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 1055/2019/TLST-HNGĐ ngày 30/09/2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST -HNGĐ ngày 13/03/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Quang V, sinh năm: 1974 (có đơn xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: 16 đường số A, khu phố B, phường LT, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Lê Thị P.T, sinh năm: 1973 (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: 96 đường CD, khu phố A, phường LC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn ông Trần Quang V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Lê Thị P.T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường LC, quận TĐ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 72, quyển số 01 ngày 23/12/1999, có tổ chức đám cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống bên nhà vợ tại địa chỉ: 96 đường Chương Dương, khu phố 1, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu cuộc sống vợ chồng bình thường nhưng đến năm 2009 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng sống ly thân từ năm 2009 đến nay, cả hai cũng không muốn hàn gắn đoàn tụ nên không nói chuyện liên lạc với nhau, ông chỉ điện thoại nói chuyện với con. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn quan hệ hôn nhân được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà bà Lê Thị P.T. Theo ông trình bày thì bà Trúc cũng đồng ý ly hôn nhưng vì theo Đạo nên không thể đến Tòa án ký đơn ly hôn, nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Về con chung: Có 02 người con chung.

01/ Trần Ngọc T.L, sinh ngày: 02/06/2002 02/ Trần Ngọc T.K, sinh ngày: 16/10/2005 Sau khi ly hôn ông đồng ý giao con chung cho bà Trúc trực tiếp nuôi dưỡng, vì hiện tại các con đang sống cùng mẹ.

- Về cấp dưỡng: Ông không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Ông xác định là tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Ông xác định không có.

* Đối với bị đơn bà Lê Thị P.T: Căn cứ theo kết quả xác minh về tình trạng cư trú của Công an phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức thì bà Lê Thị P.T thực tế đang cư trú tại địa chỉ số: 96 đường CD, khu phố A, phường LC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn có đơn xin được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

- Bị đơn bà Lê Thị P.T đã được toà án tiến hành các thủ tục tố tụng hợp lệ từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng, không giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào cho Tòa án, cũng không có ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý cho đến mở phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự có mặt chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đã được Tòa án tiến hành các thủ tục hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình được pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ vào kết quả xác minh về tình trạng cư trú của Công an phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức thì địa chỉ nơi cư trú của bị đơn tại số: 96 đường CD, khu phố A, phường LC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh, nên theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức,Thành phố Hồ Chí Minh.

- Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được toà án tiến hành các thủ tục tố tụng hợp lệ từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 228, Điểm a Khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

2. Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn, hội đồng xét xử nhận thấy.

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Quang V và bà Lê Thị P.T tự nguyện đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 72, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức ngày 23/12/1999. Căn cứ Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ hôn nhân giữa ông Vũ và bà Trúc là hôn nhân hợp pháp.

Theo trình bày của nguyên đơn Trần Quang V tại bản tự khai, tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì ông và bà Trúc kết hôn tự nguyện, chung sống thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, đã ly thân từ năm 2009, cả hai đều không muốn hàn gắn đoàn tụ nên không nói chuyện liên lạc với nhau. Ông xác nhận ngoài các chứng cứ giao nộp cho Toà án, không bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác, về thủ tục sao gửi tài liệu, chứng cứ án cho bị đơn ông đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định pháp luật. Tòa án đã tiến hành hòa giải, hàn gắn, đoàn tụ gia đình nhưng ông Vũ cũng xác định tình cảm vợ chồng với bà Trúc không còn, vì thực tế vợ chồng không còn sống chung với nhau từ lâu, vì vậy mà mục đích hôn nhân không thể đạt được, ông kiên quyết ly hôn. Ông Vũ xin xét xử vắng mặt vì lý do bận công việc; đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật, ông xác định giữ nguyên yêu cầu khởi kiện cũng như ý kiến đã trình bày về việc ly hôn đối với bà Lê Thị P.T.

Đối với bị đơn bà Lê Thị P.T cũng đã được Tòa án tiến hành xác minh địa chỉ cư trú, triệu tập nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do, cũng không có bất cứ văn bản ghi nhận ý kiến nào gửi cho Tòa án đối với yêu cầu ly hôn của ông Vũ. Do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nên Tòa án tiến hành hoãn phiên tòa theo thủ tục pháp luật quy định và tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa lần hai nhưng bà Trúc vẫn vắng mặt không có lý do, điều này cho thấy bà Trúc cũng không còn sự quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình với ông Vũ.

Xét, vợ chồng thì phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình, vợ chồng thì phải chung sống cùng nhau, có tình nghĩa vợ chồng nhưng theo những gì nguyên đơn trình bày cho thấy quan hệ hôn nhân của ông, bà hiện tại đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung vợ chồng đã không còn, nên mục đích hôn nhân cũng không đạt được.

Vì lý do trên, căn cứ Điều 19, Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

2.2. Về con chung: Căn cứ lời trình bày, tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn cung cấp, căn cứ bản sao y giấy khai sinh số 107, quyển 01/2002 do Ủy ban nhân dân phường Linh Chiểu cấp ngày 25/07/2002; trích lục khai sinh số 563/TLKS – BS ngày 01/07/2019 có cơ sở xác định con tên Trần Ngọc T.L, sinh ngày: 02/06/2002 và Trần Ngọc T.K, sinh ngày: 16/10/2005 là con chung của ông Vũ và bà Trúc. Hiện bà Trúc là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Vũ đồng ý giao con chung cho bà Trúc nuôi dưỡng, không tranh chấp quyền nuôi con, về cấp dưỡng ông Vũ không cấp dưỡng nuôi con, bà Trúc cũng không có yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao con chung cho bà Lê Thị P.T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

2.3. Về tài sản chung: Đương sự xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, hội đồng xét xử không xem xét.

2.4. Về nợ chung: Đương sự tự xác định không có.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 186, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Điểm a Khoản 1 Điều 238, Điều 264, Điều 266, Điều 273, Điều 280, Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 19, 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Quang V 1.1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Trần Quang V và bà Lê Thị P.T 1.2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Ngọc T.L, sinh ngày: 02/06/2002; Trần Ngọc T.K, sinh ngày: 16/10/2005 cho bà Lê Thị P.T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

1.3. Về cấp dưỡng: Ghi nhận ý kiến của ông Trần Quang V không cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Về tài sản chung: Đương sự xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, hội đồng xét xử không xem xét.

2.4. Về nợ chung: Đương sự tự xác định không có.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Quang V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0003896 ngày 30/09/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức. Ông Trần Quang V đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 316/2020/HNGĐ-ST ngày 06/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:316/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về